Bài dự thi tìm hiểu “Quân khu 3 - 75 năm đồng hành cùng dân tộc" - Lê Sỹ Phúc
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài dự thi tìm hiểu “Quân khu 3 - 75 năm đồng hành cùng dân tộc" - Lê Sỹ Phúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bai_du_thi_tim_hieu_quan_khu_3_75_nam_dong_hanh_cung_dan_toc.doc
DAP AN TIM HIEU QUAN KHU 3.doc
Nội dung text: Bài dự thi tìm hiểu “Quân khu 3 - 75 năm đồng hành cùng dân tộc" - Lê Sỹ Phúc
- PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO ĐÔNG HƯNG TRƯỜNG THCS PHƯƠNG CƯỜNG XÁ - - - - - - - - - - BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “QUÂN KHU 3 - 75 NĂM ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC” Họ và tên: Lê Sỹ Phúc Năm sinh: 1985. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Giáo viên. Đơn vị công tác: Trường THCS Phương Cường Xá Địa chỉ: xã Đông Phương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
- Câu 1: Quân khu 3 thành lập ngày, tháng, năm nào? Qua bao nhiêu lần tách, nhập, đổi tên? Địa bàn Quân khu 3 ngày nay gồm những địa phương nào? Trả lời * Quân khu 3 thành lập ngày 31/10/1945 Tháng 10/1945, Chính phủ ra quyết định thành lập các chiến khu trên toàn quốc. Trong phạm vi đồng bằng Bắc Bộ và phụ cận có 3 chiến khu: Chiến khu 2, Chiến khu 3, Chiến khu 11 (những đơn vị tiền thân của Quân khu 3). - Chiến khu 2: Gồm các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Hà Đông và Sơn Tây (tỉnh Hà Đông và tỉnh Sơn Tây nay thuộc thành phố Hà Nội). - Chiến khu 3: Gồm các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An (tỉnh Kiến An nay thuộc thành phố Hải Phòng), thành phố Hải Phòng, Quảng Yên, Hải Ninh (tỉnh Quảng Yên và tỉnh Hải Ninh nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). - Chiến khu 11: Chỉ có Thủ đô Hà Nội (ngày 21/12/1946, Chiến khu 11 sáp nhập vào Chiến khu 2). Từ cuối năm 1946, Chiến khu 2, Chiến khu 3 còn có tên gọi Khu 2, Khu 3. * Những lần tách, nhập, thay đổi tên gọi Từ khi thành lập đến nay, Quân khu 3 trải qua 6 lần tách, nhập, thay đổi tên gọi. 1. Liên khu 3: Ngày 25/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 120-SL thành lập Liên khu 3 trên cơ sở hợp nhất Chiến khu 2 và Chiến khu 3. Địa bàn gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình. Tháng 11/1948, Hà Nội tách khỏi Liên khu 3 thành lập Mặt trận Hà Nội. 2. Liên khu 3 và Khu Tả Ngạn: Tháng 5/1952, Liên khu 3 tách thành Khu Tả Ngạn sông Hồng (thường gọi là Khu Tả Ngạn) và Liên khu 3. - Khu Tả Ngạn: Gồm các tỉnh Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình và thành phố Hải Phòng. - Liên khu 3: Gồm các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Đông, Sơn Tây và Hoà Bình. 2
- 3. Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn (lần thứ nhất): Ngày 03/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 017/SL thành lập Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn. Ngày 10/9/1957, Bộ Quốc phòng ra Nghị định 254/NĐ quy định phạm vi và địa giới hành chính do các quân khu phụ trách, theo đó: + Quân khu Tả Ngạn: Gồm các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Thái Bình và thành phố Hải Phòng. Đến tháng 10/1957, có thêm Khu Hồng Quảng (hợp nhất hai đơn vị hành chính Đặc khu Hồng Gai và tỉnh Quảng Yên tháng 2/1955) và tỉnh Hải Ninh. Tháng 10/1963, Khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh. + Quân khu Hữu Ngạn: Gồm các tỉnh Hoà Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá (Thanh Hoá tách từ Quân khu 4 về). 4. Quân khu 3 (lần thứ nhất): Tháng 11/1963, hợp nhất Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn thành Quân khu 3. Địa bàn gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nam Hà (năm 1996, tỉnh Nam Hà tách ra thành tỉnh Hà Nam, tỉnh Nam Định), Ninh Bình, Hà Tây, Hòa Bình, Hải Hưng (tỉnh Hải Hưng sau này tách ra thành tỉnh Hải Dương, tỉnh Hưng Yên), Hà Bắc (sau này tách ra thành tỉnh Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh), Thái Bình và thành phố Hải Phòng. Tháng 11/1963, tỉnh Quảng Ninh tách ra để thành lập Quân khu Đông Bắc. Tháng 02/1970, Quân khu Đông Bắc giải thể, tỉnh Quảng Ninh sáp nhập vào Quân khu Tả Ngạn. Từ tháng 1-8/1964: Có thêm Thủ đô Hà Nội. 5. Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn (lần thứ hai): Ngày 27/3/1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 22/QĐ- BQP tách Quân khu 3 thành Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn, theo đó: - Quân khu Tả Ngạn: Gồm các tỉnh, thành phố: Hà Bắc, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và Thái Bình. - Quân khu Hữu Ngạn: Gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nam Hà, Ninh Bình, Hà Tây và Hoà Bình. 6. Quân khu 3 (lần thứ 2): Ngày 29/5/1976, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 45/LCT hợp nhất Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn thành Quân khu 3. Địa 3
- bàn gồm các tỉnh Hải Hưng, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Hà Nam Ninh (tỉnh Hà Nam Ninh thành lập ngày 27/12/1975, trên cơ sở sáp nhập tỉnh Nam Hà, tỉnh Ninh Bình), Hà Sơn Bình (sau này tách ra thành tỉnh Hà Tây, tỉnh Sơn Tây, tỉnh Hòa Bình; hiện nay là tỉnh Hòa Bình và một phần thành phố Hà Nội). * Một số thay đổi về địa giới của Quân khu 3 sau khi tái lập: - Tháng 6/1978, các tỉnh Hà Bắc, Quảng Ninh tách khỏi Quân khu 3, sáp nhập vào Quân khu 1. - Ngày 04/8/1987, Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) ra Nghị quyết số 154/NQ hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh vào Quân khu 3 (trước đó, khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, tháng 4/1979, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 71/LCT tách tỉnh Quảng Ninh khỏi Quân khu 1 để thành lập Đặc khu Quảng Ninh trực thuộc Trung ương). - Tháng 10/1999, tách Hà Tây về Quân khu Thủ đô (nay là Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội). * Hiện nay, địa bàn Quân khu 3 gồm 9 tỉnh, thành phố là: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hòa Bình, Hải Dương và Hưng Yên. Câu 2: Trải qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, quân và dân Quân khu 3 đã lập nhiều chiến công hiển hách, đồng chí (bạn) hãy giới thiệu mỗi tỉnh, thành phố trên địa bàn Quân khu 01 trận đánh tiêu biểu? Ý nghĩa của trận đánh đó tới cục diện chiến trường hoặc sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc? Trả lời 1. Trận đánh tàu Cray-xắc và Ô-đa-xi-ơ (ngày 7 và 11/9/1945) của Đại đội Ký Con ở vùng biển Hòn Gai tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh). * Tình hình chung - Sau khi giành được chính quyền (8/1945), quân giải phóng của Chiến khu Trần Hưng Đạo (còn gọi là Đệ tứ Chiến khu) tỏa về các tỉnh miền duyên hải để xây dựng lực lượng, trấn áp phản động. - Đại đội Ký Con được điều động ra Hòn Gai, tỉnh Quảng Ninh tăng cường, bảo vệ chính quyền cách mạng. 4
- - Cray-xắc và Ô-đa-xi-ơ hai tàu chiến của Pháp. Đầu năm 1943, tàu Cray-xắc (cùng 1 tàu khác) thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu phía ngoài Vịnh Hạ Long và các đảo Cô Tô, Bạch Long Vĩ để kiểm tra tàu buôn lậu của người Trung Quốc sang Việt Nam và ngược lại. Tháng 8/1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng, Kiến An giành thắng lợi, tàu Cray-xắc rời Cảng Hải Phòng ra đậu gần đảo Long Châu. Ngày 07/9/1945 tàu Cray-xắc vào Vịnh Hạ Long, tiến sát biển Hòn Gai. * Diễn biến - Sáng ngày 07/9, ta phát hiện tàu Cray-xắc từ đảo Vạn Hoa vào bến Hòn Gai, ta sử dụng 2 tàu và 1 ca nô kịp thời triển khai đội hình bao vây, bất ngờ áp sát, bắt gọn. - Trưa ngày 11/9 Pháp cho tàu Ô-đa-xi-ơ vào tìm kiếm tàu Cray-xắc, tiếp tục bị ta truy đuổi, bắt giữ. * Kết quả Ta thu 2 tàu cùng toàn bộ vũ khí, trang bị (có 01 pháo 37mm, 06 súng máy khác hạng nặng...); bắt 24 sĩ quan và thủy thủ. * Ý nghĩa - Góp phần bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. - Góp phần hạn chế hoạt động của địch ở vùng biển Đông Bắc. - Đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của LLVT liên tỉnh duyên hải Đông Bắc. - Bước đầu đánh vào ý đồ quay trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp. - Cổ vũ tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược và bọn phản động tay sai của quân và dân ta. 2. Trận tập kích sân bay Cát Bi (ngày 07/3/1954) của bộ đội địa phương tỉnh Kiến An (nay là quận Kiến An thành phố Hải Phòng). * Tình hình chung - Sân bay Cát Bi là một trong những căn cứ không quân lớn nhất của Pháp ở Đông Dương, nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, thuộc huyện An Hải, tỉnh Kiến An (nay là quận Hải An, thành phố Hải Phòng), có diện tích 1.400 ha, 500 ha xung quanh là vành đai trắng. 5
- - Sau khi thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ (20/11/1953) và xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh; sân bay Cát Bi với sức chứa 500 máy bay (thực tế thường có 277 chiếc) trở thành một trong những đầu cầu hàng không chủ yếu, trực tiếp chi viện cho Điện Biên Phủ. - Sân bay được bảo vệ bằng 2 tuyến phòng thủ của 6 tiểu đoàn; trong đó có 4 tiểu đoàn Âu - Phi. Bao quanh sân bay là 6 lớp rào dây thép gai xen kẽ bãi mìn, kết hợp đèn chiếu sáng. Địch thiết lập một hệ thống bảo vệ dày đặc và rất chặt chẽ gồm 38 vị trí trong hàng rào, 22 vị trí ngoài hàng rào, 13 trận địa súng máy hạng nặng tạo thành một hệ thống phòng không bảo vệ và 5 vị trí từ Cầu Rào theo đường 14 đến Quý Kim để bảo đảm an toàn cho sân bay. - Để phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện chủ trương của Tổng Quân ủy, Khu Tả Ngạn chỉ thị cho Tỉnh đội Kiến An tổ chức tập kích sân bay Cát Bi. Lực lượng tham gia tập kích gồm 32 cán bộ, chiến sĩ thuộc Đại đội 295 bộ đội địa phương tỉnh Kiến An. * Diễn biến: - Sau gần 7 tháng chuẩn bị, được sự giúp đỡ của nhân dân Kiến Thụy, Tiên Lăng, Hải An, đêm ngày 06/3, các chiến sĩ chia làm hai mũi (mũi một 17 người, mũi hai 15 người) bí mật đột nhập, ém sẵn gần đường băng. - 01 giờ ngày 07/3, ta đồng loạt tiến vào khu đỗ máy bay, dùng bộc phá phá hủy máy bay, trận đánh diễn ra trong khoảng 15 phút và rút lui an toàn. Sân bay bốc cháy suốt 17 giờ. * Kết quả Phá hủy 59 máy bay; diệt 01 tiểu đội lính đi tuần và 01 tiểu đội lính canh gác. * Ý nghĩa - Tiêu hao phương tiện chiến tranh của địch, hỗ trợ đắc lực cho chiến dịch Điện Biên Phủ. - Cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công trên các mặt trận, nhất là Điện Biên Phủ. Làm cho địch hoang mang, dao động. - Phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam: Sử dụng lực lượng nhỏ, với cách đánh táo bạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần phát triển chiến tranh du kích 6
- trong chiến cuộc Đông Xuân (1953-1954). - Các chiến sĩ tham gia trận đánh được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu “Dũng sĩ Cát Bi”; đơn vị đánh sân bay Cát Bi được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi” và Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất. 3. Trận phục kích đánh tàu địch tại ga Phạm Xá (ngày 31/01/1954) của bộ đội huyện Kim Thành, tỉnh Hải Hương. * Tình hình chung - Để tăng cường lực lượng cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và các cánh quân đang phải phân tán đối phó với quân ta, đầu năm 1954, thực dân Pháp gấp rút đưa quân sang Việt Nam. Quân Pháp cập Cảng Hải Phòng rồi di chuyển bằng tàu hỏa lên Hà Nội, từ đó đến các chiến trường. - Chấp hành chỉ thị của Tỉnh đội Hải Dương, bộ đội và du kích huyện Kim Thành tổ chức tập kích đánh mìn tại đoạn đường sắt ga Phạm Xá - Xuân Mang nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy phương tiện vận tải đường sắt, tạo thế và lực cho du kích hoạt động trên Quốc lộ 5. Ga Phạm Xá (huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương) thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, có Quốc lộ 5 chạy sát và song song. Đây là tuyến giao thông quan trọng, địch bảo vệ cẩn mật bằng hệ thống đèn pha, hàng rào thép gai, mìn và lực lượng tuần tra canh gác ngày đêm. - Trận đánh do trung đội bộ đội huyện Kim Thành tổ chức. Đồng chí Nguyễn Văn Thòa (Huyện đội phó kiêm Trung đội trưởng) chỉ huy. * Diễn biến - Sau thời gian nghiên cứu, nghi binh (đặt mìn giả), ngày 15/1, ta sử dụng 100kg thuốc nổ làm mìn điện chôn giữa đường sắt, bí mật chờ địch. - 10 giờ 25 phút ngày 31/01 (sau 2 tuần), đoàn xe lửa chở quân Pháp từ Hải Phòng lên Hà Nội, lọt vào trận địa của ta, ta nổ mìn. Đoàn tàu chở quân Pháp bị đổ, các toa xô vào nhau, cái văng ra đường, cái lăn xuống ruộng. Quân địch chết ngổn ngang. * Kết quả 7
- Diệt, làm bị thương 776 tên địch; phá hủy 4 toa, lật đổ đầu máy và 4 toa khác. * Ý nghĩa - Trận đánh mìn diệt nhiều địch nhất trong đánh giao thông đường sắt, làm ngưng trệ hoạt động vận chuyển đường sắt của địch trong 4 ngày, góp phần trực tiếp ngăn chặn chi viện của chúng cho chiến trường Điện Biên Phủ. - Thúc đẩy chiến tranh du kích trên tuyến đường sắt, Quốc lộ 5 phát triển. - Cổ vũ tinh thần quân, dân đồng bằng Bắc Bộ và cả nước. - Khiến địch hoang mang, dao động. 4. Trận chống càn (từ ngày 26 đến 30/5/1948) của Trung đoàn 64 Liên khu 3 và dân quân huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. * Tình hình chung - Năm 1948, địa bàn Liên khu 3 là chiến trường nóng bỏng, nơi diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch. - Từ ngày 26 đến 31/5/1948, quân Pháp mở cuộc hành quân càn quét lớn trên hướng Hưng Yên với lực lượng huy động khoảng 3.000 quân, thuộc 2 binh đoàn cơ động Sô-va-nhăc và Com-muy-nan, có thuỷ quân phối hợp, được pháo binh và không quân yểm trợ thọc sâu vào vùng tự do Hưng Yên 20km thuộc các huyện Khoái Châu, Kim Động, Ân Thi nhằm mở rộng, củng cố khu vực đã chiếm, bao vây tiêu diệt Trung đoàn 64 cùng LLVT và cơ quan lãnh đạo kháng chiến tỉnh Hưng Yên. Địch tổ chức càn quét theo các hướng: Trương Xá, Kim Động và từ đê sông Hồng đánh vào nhà thờ Lầy đến chợ Thi. - Lực lượng ta trong khu vực chiến đấu có Tiểu đoàn 239, Đại đội 27 trợ chiến thuộc Trung đoàn 64 chủ lực Liên khu 3, LLVT địa phương và du kích. * Diễn biến - Ngày 26/5, Pháp huy động 3.000 quân, có thủy quân, không quân, pháo binh yểm trợ, thọc sâu vào vùng tự do thuộc các huyện Khoái Châu, Kim Động, Ân Thi tỉnh Hưng Yên. - Du kích và nhân dân địa phương đào đường, đắp ụ ngăn các mũi tiến quân của địch. Tiểu đoàn 239, Tiểu đoàn 182 của Trung đoàn 64 tổ chức chặn đánh quyết liệt ở Cầu Đìa, làng Thi, phố Thi bẻ gãy nhiều đợt tiến công của chúng. 8
- - Cùng với hành quân thọc sâu, địch dùng máy bay B-26 ném bom đánh phá nhiều lần vào khu vực của ta; nhiều nơi bị oanh tạc nặng nề như làng Thi, Nhân Vũ, Bình Đối (Ân Thi), Tiểu Quan, Ngọc Nha (Khoái Châu), Đình Cao, Ba Động, La Tiến (Phù Cừ). Nhưng quân ta kiên cường bám trụ, anh dũng chiến đấu đánh trả, khiến quân địch bị tổn thất nặng nề, buộc phải rút quân. * Kết quả Diệt hơn 300 địch, bắn chìm 3 ca nô, buộc Pháp phải lui quân. * Ý nghĩa - Là một trong những thắng lợi lớn đầu tiên của quân và dân Việt Nam trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp. - Là kết quả của việc thực hiện chủ trương sử dụng đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, phối hợp với LLVT địa phương, dân quân du kích chiến đấu. - Đánh dấu bước trưởng thành mới của Trung đoàn 64 về nghệ thuật quân sự. - Cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân đồng bằng Bắc Bộ và tỉnh Hưng Yên. Sau trận chống càn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen bộ đội và du kích tỉnh Hưng Yên, tặng danh hiệu “Quyết thắng” cho Trung đoàn 64. 5. Trận chiến đấu bắn rơi máy bay A-7 (ngày 12/7/1972) của Đại đội Pháo cao xạ nữ dân quân tập trung huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình. * Tình hình chung - Tháng 4/1972, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Các đơn vị Quân đội, trận địa phòng không, hạ tầng giao thông, cơ sở sản xuất quan trọng là mục tiêu hủy diệt của chúng, nhằm phá hoại sản xuất, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. - Cống Lân thuộc tỉnh Thái Bình là công trình thủy lợi quan trọng, tiêu nước cho 4 huyện phía nam tỉnh, là một trong những mục tiêu đánh phá của địch. Đại đội 4 pháo cao xạ nữ quân tập trung cùng với Đại đội 4 phòng không bộ đội địa phương được giao nhiệm vụ bảo vệ cống Lân. * Diễn biến - Gần 15 giờ ngày 12/7/1972, ta phát hiện tốp máy bay gồm 3 chiếc A-7 bay về hướng cống Lân. Chúng bay vòng qua trận địa nhằm nghi binh, thăm dò hỏa lực ta, trinh 9
- sát, xác định mục tiêu, vị trí bảo vệ, sau đó bay ra biển. - Sau đó, chúng vòng lại, bay thẳng vào trận địa. Ta tập trung bắn chiếc bổ nhào, máy bay địch bốc cháy lao ra biển, 2 chiếc còn lại bỏ chạy. * Kết quả Ta bắn cháy 01 máy bay A-7. * Ý nghĩa - Trận đánh thứ hai bắn rơi máy bay phản lực Mỹ của một đại đội nữ dân quân tập trung; khẳng định trình độ, năng lực chỉ huy hiệp đồng chiến đấu cao của đại đội nữ dân quân ở một tỉnh đồng bằng ven biển. - Khẳng định lực lượng lượng dân quân, tự vệ nếu được trang bị đầy đủ có thể chiến đấu ở hình thức chiến thuật cao hơn. - Cổ vũ cán bộ, chiến sĩ LLVT các địa phương săn tìm, tiêu diệt máy địch. 6. Trận chiến đấu phòng không (ngày 01/10/1966) của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và đại đội dân quân xã Lam Hạ, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. * Tình hình chung - Năm 1966, đế quốc Mỹ tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ra miền Bắc, nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế - quốc phòng, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân ta. Là địa bàn có vị trí chiến lược, tỉnh Hà Nam trở thành mục tiêu đánh phá trọng điểm. - Xã Lam Hạ thuộc thị xã Phủ Lý (nay là thành phố Phủ Lý), tỉnh Hà Nam, có Quốc lộ 1, đường sắt Bắc Nam chạy qua; có 2 cầu phao dùng cho xe quân sự vượt sông Châu Giang nếu cầu Phủ Lý bị địch đánh phá chưa kịp khắc phục. Vì vậy, đây là điểm đánh phá ác liệt nhất của không quân Mỹ. - Từ đầu năm 1965 đến cuối năm 1966, Quân khu 3 đã khảo sát, bố trí trên địa bàn xã 3 trận địa pháo phòng không nhằm phối hợp với trận địa pháo phòng không xã Phù Vân tạo thành thế gọng kìm, đánh trả có hiệu quả các đợt đánh phá của máy bay địch vào các vị trí chiến lược ở thị xã Hà Nam, đảm bảo giao thông, thông tin liên lạc, phục vụ công tác vận chuyển lương thực, thực phẩm chi viện cho chiến trường miền Nam. Để phối hợp chiến đấu, ngày 05/8/1965, Đại đội dân quân phòng không xã Lam Hạ được thành lập, trong đó Trung đội nữ gồm 24 đồng chí. 10