Bài giảng Tiếng Việt 4 KNTT - Bài: Đọc "Trên Khóm tre đầu ngõ" (GV: Cao Thị Kim Nga)

pptx 28 trang Vân Hà 05/09/2025 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Tiếng Việt 4 KNTT - Bài: Đọc "Trên Khóm tre đầu ngõ" (GV: Cao Thị Kim Nga)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptxbai_giang_tieng_viet_4_kntt_bai_doc_tren_khom_tre_dau_ngo_gv.pptx

Nội dung text: Bài giảng Tiếng Việt 4 KNTT - Bài: Đọc "Trên Khóm tre đầu ngõ" (GV: Cao Thị Kim Nga)

  1. Nêu những chi tiết thể hiện tình yêu thương của mọi người đối với Bum tròn câu chuyện Con muốn làm một cái cây. + Ông nội trồng cây ổi từ khi Bum còn trong bụng mẹ. + Bố mẹ quyết định trồng một cây ổi trong vườn nhà mới cho Bum.
  2. Câu chuyện Con muốn làm một cái cây muốn nói với chúng ta điều gì? Qua câu chuyện, tác giả muốn nói rằng hạnh phúc nằm trong những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống của chúng ta. Nằm ở tình yêu thương và sự quan tâm của mọi người dành cho nhau. Bởi vậy chúng ta không cần tìm hạnh phúc ở đâu xa cả, nó nằm ngay đây, trong ngôi nhà nhỏ của mình.
  3. Con gì lông trắng tựa bông Bay la bay lả giữa đồng lúa xanh Tính nết chăm chỉ, hiền lành Chân cao, cổ ngẳng, dáng hình mảnh mai? Con cò
  4. Một ngày đầu hè, có đôi cò bay đến, đỗ trên khóm tre đầu ngõ nhà ông cháu Bua Kham. Gió đu đưa cành lá làm vợ chồng cò thỉnh thoảng phải rướn chân và khẽ vỗ cánh để lấy thăng bằng. Mấy hôm sau, trên cành tre đã thấy một tổ cò làm bằng cọng và lá tre khô. Chẳng bao lâu, Bua Kham nghe thấy tiếng cò con. Chúng kêu ríu rít trong tổ. Lúc rảnh, Bua Kham thường ra đứng dưới khóm tre. Chẳng gì thương bằng xem lũ cò con đòi ăn. Cứ thoáng thấy đôi cánh trắng chập chờn ở xa là chúng quơ quơ cái đầu trụi lông trên ổ lá. Chúng há rộng cặp mỏ mềm và kêu khàn khàn.
  5. Một buổi, trời nổi bão lớn. Mưa tạt rát mặt. Cả gia đình cò run rầy, ướt sũng nên trông càng gầy nhom, xơ xác. Cơn gió mạnh bỗng ào đến. Mấy chú cò con bị hất lên và ngã nhào. Vợ chồng cò muốn lao xuống cứu con, nhưng cánh đã ướt nên đành bám lấy cành tre và kêu quác quác buồn thảm. Tan bão, Bua Kham nhìn thấy lũ cò con nằm run run dưới đất, giữa đống lá ngổn ngang. Người ta bảo có thể nhặt lũ cò con về nuôi. Chúng sẽ quen nhà và đi tha thẩn bắt ruồi trên sân. Nhưng Bua Kham không muốn làm tan tác cái gia đình cò bé bỏng. Bọn cò con nhỏ quá, trả chúng về cho bố mẹ chúng thì hơn. Bua Kham gọi ông. Ông bắc thang, đem đặt lũ cò con vào chiếc tổ cũ. Mùa sinh nở năm sau, vợ chồng có rủ thêm ba bốn chục cặp cò bạn cùng đến. Chúng rủ cả những đôi cò lửa đỏ như ánh chớp và những đôi vạc xám như bóng chiều. Khắp vùng, không đâu vui bằng vườn nhà ông cháu Bua Kham. (Theo Vũ Hùng)
  6. Đoạn 1: từ đầu đến lá tre khô. Đoạn 2: tiếp theo cho đến kêu khàn khàn. Đoạn 3: tiếp theo cho đến buồn thảm. Đoạn 4 tiếp theo cho đến chúng thì hơn. Đoạn 5: đoạn còn lại.
  7. Một ngày đầu hè, có đôi cò bay đến, đỗ trên khóm tre đầu ngõ nhà ông cháu Bua Kham. Gió đu đưa cành lá làm vợ chồng cò thỉnh thoảng phải rướn chân và khẽ vỗ cánh để lấy thăng bằng. Mấy hôm sau, trên cành tre đã thấy một tổ cò làm bằng cọng và lá tre khô. Chẳng bao lâu, Bua Kham nghe thấy tiếng cò con. Chúng kêu ríu rít trong tổ. Lúc rảnh, Bua Kham thường ra đứng dưới khóm tre. Chẳng gì thương bằng xem lũ cò con đòi ăn. Cứ thoáng thấy đôi cánh trắng chập chờn ở xa là chúng quơ quơ cái đầu trụi lông trên ổ lá. Chúng há rộng cặp mỏ mềm và kêu khàn khàn.
  8. Một buổi, trời nổi bão lớn. Mưa tạt rát mặt. Cả gia đình cò run rầy, ướt sũng nên trông càng gầy nhom, xơ xác. Cơn gió mạnh bỗng ào đến. Mấy chú cò con bị hất lên và ngã nhào. Vợ chồng cò muốn lao xuống cứu con, nhưng cánh đã ướt nên đành bám lấy cành tre và kêu quác quác buồn thảm. Tan bão, Bua Kham nhìn thấy lũ cò con nằm run run dưới đất, giữa đống lá ngổn ngang. Người ta bảo có thể nhặt lũ cò con về nuôi. Chúng sẽ quen nhà và đi tha thẩn bắt ruồi trên sân. Nhưng Bua Kham không muốn làm tan tác cái gia đình cò bé bỏng. Bọn cò con nhỏ quá, trả chúng về cho bố mẹ chúng thì hơn. Bua Kham gọi ông. Ông bắc thang, đem đặt lũ cò con vào chiếc tổ cũ. Mùa sinh nở năm sau, vợ chồng có rủ thêm ba bốn chục cặp cò bạn cùng đến. Chúng rủ cả những đôi cò lửa đỏ như ánh chớp và những đôi vạc xám như bóng chiều. Khắp vùng, không đâu vui bằng vườn nhà ông cháu Bua Kham. (Theo Vũ Hùng)
  9. chập chờn Luyện đọc từ khó Quơ quơ tát rát mặt
  10. Luyện đọc nhóm Yêu cầu - Phân công đọc theo đoạn - Tất cả thành viên đều đọc - Giải nghĩa từ cùng nhau
  11. Cùng tìm hiểu bài 1. Đôi cò bay đến khóm tre nhà Bua Kham để làm gì? Chi tiết nào giúp em biết điều đó? Đôi cò bay đến khóm tre nhà Bua Kham để làm tổ và sinh con. Chi tiết giúp em biết điều đó: Mấy hôm sau, trên cành tre đã thấy một tổ cò làm bằng cọng và lá tre khô; Chẳng bao lâu, Bua Kham nghe thấy tiếng cò con. Chúng kêu ríu rít trong tổ.
  12. 2. Hình ảnh những chú cò con được miêu tả như thế nào? Nêu cảm xúc của Bua Kham khi quan sát cò con đòi ăn. Được miêu tả rất bé bỏng/ non nớt/ sinh động/ đáng yêu/ ngộ nghĩnh/ tham ăn, luôn ngóng bố mẹ Các chi tiết: kêu ríu rít, quơ quơ cái đầu trụi lông, há cặp mỏ mềm, kêu khàn khàn,... Cảm xúc của Bua Kham khi quan sát cò con đòi ăn: thương/ yêu/ say sưa/ quan tâm/...
  13. 3. Kể lại tình cảm đáng thương của gia đình cò trong cơn bão. Bão tạt rát mặt làm gia đình cò run rẩy, ướt sũng. Nhà cò trông càng gầy nhom, xơ xác. Khi gió mạnh ào đến, mấy chú cò con bị hất lên và ngã nhào. Tình cảm đáng thương của Vợ chồng cò muốn lao cứu con, nhưng cánh đã gia đình cò trong cơn bão ướt nên bất lực. Chúng đành phải bám lấy cành tre và kêu quác quác buồn thảm.
  14. 4. Bua Kham nghĩ gì và làm gì khi nhìn thấy lũ cò con bị rơi xuống đất? Bua Kham nghĩ: người ta bảo có thể nhặt lũ cò con về nuôi nhưng Bua Kham không muốn làm tan tác cái gia đình cò bé bỏng. Bọn cò con nhỏ quá, trả chúng về cho bố mẹ chúng thì hơn. Bua Kham làm: Gọi ông. Ông bắc thang, đem đặt lũ cò con vào chiếc tổ cũ.