Báo cáo Sáng kiến Dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh phần Điện học lớp 9
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Sáng kiến Dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh phần Điện học lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bao_cao_sang_kien_day_hoc_theo_huong_phat_trien_nang_luc_cho.docx
Nội dung text: Báo cáo Sáng kiến Dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh phần Điện học lớp 9
- BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. Tên sáng kiến: “Dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh phần Điện học lớp 9” II. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: Theo Nghị Quyết Hội Nghị Trung ương 8 khóa XI về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”. Theo chủ trương của Đảng và nhà nước xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực: - Theo chủ trương này việc dạy học phải lấy HS làm trung tâm, phương pháp Giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người HS, bồi dưỡng cho người HS năng lực tự học, khả năng thực hành. - GV chỉ là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học của HS Qua nghiên cứu mục tiêu, nhiệm vụ dạy học bộ môn Vật Lý 9, căn cứ vào nội dung chương trình Vật lý 9 và chất lượng thực tế của học sinh ở trường THCS Phong Huy Lĩnh, tôi thấy việc tìm ra các biện pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực bộ môn Vật lý là yêu cầu cần thiết, mặt khác nội dung phần “ Điện học” là một nội dung rất quan trọng trong môn Vật Lý 9, nội dung phần này tương đối khó với học sinh lớp 9 . Chính vì thế mà tôi nghiên cứu và làm sáng kiến : “Dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh phần Điện học lớp 9” Qua nghiên cứu chương trình GDPT 2018 môn KHTN 9 phần Vật Lý, tôi thấy đề tài dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh phần Điện Học có thể áp dụng trong những năm tiếp theo khi học chương trình GDPT 2018. III. Mô tả giải pháp kỹ thuật III.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
- Vật lý là một môn khoa học thực nghiệm. Những kiến thức Vật lý có nhiều ứng dụng trong thực tế đời sống, kĩ thuật, gần gũi với kinh nghiệm hiểu biết của học sinh. Tuy nhiên, do học sinh chưa quen với lối tự làm việc, tự học, nên các em thường tìm hiểu nội dung bài học một cách qua loa, sơ sài. Đa số học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn, không chuẩn bị trước bài mới, ít tìm tòi, suy luận và thường thì thầy cô viết bảng bao nhiêu về nhà học bấy nhiêu. Giải pháp 1: Việc học bộ môn Vật lí của học sinh còn thụ động Nhiều học sinh nhút nhát, thụ động. Các thao tác thực hành, thí nghiệm chậm. Kĩ năng làm bài tập rất hạn chế, tính toán chậm do phần bài tập định lượng chỉ mới có từ chương trình Vật lý lớp 8 và tiết bài tập rất ít. Giải pháp 2: Nội dung chương trình Vật lý 9 THCS tương đối nặng Ở lớp 6 và 7 mức độ kiến thức phần Vật Lý trong môn KHTN chỉ là khảo sát định tính các sự vật hiện tượng, chương trình vật lý 9 đòi hỏi khả năng tư duy của học sinh cao hơn, tạo điều kiện phát triển các năng lực lên một mức cao hơn và đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Khi chưa áp dụng đề tài vào giảng dạy các lớp ở trường tôi thu được và nhận thấy rằng học sinh tiếp nhận kiến thức thụ động, máy móc, không được phát triển về tư duy tích cực, chủ động ,sáng tạo. Học sinh có thể nhớ và thuộc kiến thức nhưng không hiểu sâu bản chất của kiến thức, vận dụng kiến thức không linh hoạt, nhạy bén, khả năng thực hành của các em chưa cao. III.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Qua quá trình giảng dạy môn Vật Lý ở cấp THCS 17 năm qua tôi nhận thấy môn Vật Lý là môn khoa học thực nghiệm rất khó đòi hỏi học sinh phải có niềm yêu thích, đam mê, tính ham học hỏi và tự tìm tòi mới có thể yêu thích môn học và có được kết quả cao. Giáo viên phải liên tục đổi mới về phương pháp, cách thức tổ chức các hoạt động dạy học giúp học sinh thấy mình được 2
- học chứ không bị học. Học sinh được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. Học sinh phải thấy được mình hạnh phúc khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà học sinh ghi nhớ sâu kiến thức và tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều. Nhưng thực tế thì nói đến bộ môn Vật Lý học sinh thường rất sợ, và ngại học môn học này. Vì vậy tôi đã tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Vật Lý 9 đặc biệt là phần điện học. Các giải pháp cụ thể như sau: Giải pháp 1: Sử dụng thiết bị, phương tiện dạy học Vật lý là môn học có nhiều ứng dụng trong sản xuất, đời sống và là thành tựu của ngành công nghệ thông tin nên giáo viên có nhiều cơ hội để gây hứng thú cho học sinh trong quá trình tìm hiểu, khám phá ra những điều mới mẻ xung quanh, tạo ra nhu cầu và hứng thú học tập cho học sinh. Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo trong giờ học thể hiện ở chỗ: Kích thích được óc tò mò khoa học, ham hiểu biết của các em bằng cách tạo ra những tình huống có vấn đề. Đó là những câu hỏi thú vị gây hứng thú học tập, tạo nhu cầu nhận thức cho học sinh. Giáo viên không thuyết trình liên miên mà dành cho hoạt động độc lập của học sinh bằng cách tăng cường vấn đáp tìm tòi, tạo ra các cuộc tranh luận, thảo luận, chuyển dần từ kiểu dạy học truyền thụ kiến thức sang dạy học giải quyết vấn đề. Đối với môn Vật lý thì có thể nói “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Nếu không có sự trải nghiệm nhất định trong thực tế thì lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặt được. Hơn nữa sự hiểu biết Vật lý không thể đạt được đơn thuần bằng suy diễn lôgic. Chỉ có những quan sát và thực nghiệm mới giúp cho học sinh khắc sâu kiến thức.. vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực 3
- nghiệm và cao hơn nữa cho học sinh tập dượt giải quyết vấn đề vật lý trong thực tế. Trong các tiết học tôi đã sử dụng tối đa các thiết bị hiện có của nhà trường để các em có thể tự mình kiểm nghiệm các thí nghiệm rút ra các kết luận, đối với các thiết bị hỏng hóc không sửa chữa được thì tôi đã sử dụng máy chiếu để học sinh có thể quan sát để bài dạy sinh động hơn ( nhất là trong các tiết học thực hành mà thiết bị thí nghiệm của nhà trường không đáp ứng được yêu cầu bài dạy). Ví dụ: * Khi dạy bài 1“Sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn”, học sinh sẽ được làm thí nghiệm và giáo viên đặt câu hỏi mở “Từ kết quả thí nghiệm, hãy cho biết khi thay đổi hiệu điện thế giữa 2 đầu dây dẫn, cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn đó có mối quan hệ như thế nào hiệu điện thế?”. Ở câu hỏi này, đòi hỏi học sinh tư duy tìm ra sự phụ thuộc tỉ lệ thuận và có khả năng bộc lộ sai sót cho rằng U phụ thuộc vào I. Thông qua đó giáo viên phân tích điều chỉnh nhận xét của học sinh giúp các em hiểu đúng bản chất của sự phụ thuộc đó. * Khi dạy bài 2 “Điện trở của dây dẫn - Định luật Ôm”: “Nếu sử dụng cùng một hiệu điện thế đặt vào hai đầu các dây dẫn khác nhau thì cường độ dòng điện qua chúng có như nhau không?”. Qua việc làm thí nghiệm và phân tích kết quả thí nghiệm, học sinh biết được khái niệm và ý nghĩa điện trở của dây dẫn. * Khi dạy bài 4+5 “Đoạn mạch nối tiếp, song song”, học sinh được chia thành nhóm để làm thí nghiệm kiểm tra công thức tính điện trở tương đương của đoạn mạch. Qua đó tạo hứng thú học tập bộ môn và khắc sâu kiến thức cho học sinh. * Khi dạy bài 7,8,9 "Sự phụ thuộc của điện trở vào dây dẫn", thay vì giáo viên thông báo cho học sinh nghe về điện trở phụ thuộc vào chiều dài, tiết 4
- diện và vật liệu làm dây dẫn rồi ghi chép thụ động, thì ta cho học sinh thử nêu dự đoán và dự kiến cách làm thí nghiệm kiểm tra. Thông qua các thí nghiệm, học sinh sẽ rút ra sự phụ thuộc đó và có hiểu biết tại sao người ta thường dùng dây đồng làm lõi dây dẫn điện, hoặc ở các đường dây chính phải dùng dây có tiết diện đủ lớn. * Khi dạy bài 10 “Biến trở – Điện trở dùng trong kĩ thuật” - Giáo viên cho học sinh quan sát biến trở thật kết hợp hình 10.1 để nêu cấu tạo và hoạt động của biến trở - Quan sát mạch điện ở điều khiển ti vi hỏng,quạt điện để học sinh nhận biết các điện trở dùng trong kĩ thuật * Khi dạy bài 13 “Điện năng – Công của dòng điện”: giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm, thảo luận trao đổi để tìm hiểu xem các dụng cụ điện khi hoạt động biến đổi điện năng thành những dạng năng lượng nào? Phần năng lượng nào được biến đổi từ điện năng là có ích, là vô ích? Sau đó các tổ tự trình bày trước lớp và trao đổi , thống nhất kết quả. Với những biện pháp này, giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức còn học sinh hoàn toàn chủ trong quá trình học tập của mình. Giải pháp 2: Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh Chương trình vật lý mới đòi hỏi mỗi học sinh có một thái độ học tập đúng đắn và một phương pháp học tập khoa học thì hiệu quả tiết học mới cao. Ngay từ tiết học đầu tiên, giáo viên cần tập cho các em thói quen cần thiết trong học tập như: - Học và làm đầy đủ các bài tập do giáo viên giao về nhà. - Đọc trước bài mới, tập trả lời các câu hỏi theo sách giáo khoa. - Trong giờ học mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ, ý kiến của mình khi thảo luận, trao đổi cùng các bạn. - Tham gia các thí nghiệm thực hành trên lớp với ý thức tự giác, kỉ luật. - Chú ý nghe giảng, ghi chép các nội dung quan trọng của bài học. 5
- - Làm sổ tay Vật Lý, Ghi chép những công thức, định luật quan trọng Qua tìm hiểu thực tế, tôi thấy khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh thường bị coi nhẹ. Do đó, tôi nghĩ ngay từ bước dặn dò, học sinh cần được hướng dẫn vào quỹ đạo cần thiết. Để chuẩn bị bài “Điện năng - Công của dòng điện”, sau khi dặn học sinh các nội dung cần học ở bài trước, làm bài tập củng cố, áp dụng, phần chuẩn bị bài mới gồm: + Tìm 3 đồ dùng điện mà khi hoạt động thì dòng điện đã thực hiện công, 3 đồ dùng điện khi hoạt động dòng điện cung cấp nhiệt lượng. Những biểu hiện của mỗi dụng cụ đó ? + Ôn tập công thức tính hiệu suất, công thức tính công suất đã học ở lớp 8. + Trong tháng 9.2020 gia đình em sử dụng bao nhiêu số đếm? (theo hóa đơn tiền điện) Số đếm đó cho biết công suất hay lượng điện năng đã sử dụng. Giải pháp 3: Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực Nội dung phần Điện học trong chương trình Vật Lí 9 có rất nhiều thí nghiệm chính vì thế mà kết hợp các phương pháp dạy học tích cực để học sinh chủ động tham gia vào các hoạt động hình thành kiến thức, các kĩ năng hợp tác khi hoạt động nhóm, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu hơn và hiểu bài sâu hơn. 3.1. Phương pháp dạy và học hoạt động nhóm trong dạy học Vật lí 9. + Theo phương pháp này, lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ. Tùy mục đích yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định , được duy trì ổn định hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng nhiệm vụ hoặc nhiệm vụ khác nhau. + Nhóm tự bầu ra nhóm trưởng. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc, như: người lắp ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thư kí ghi kết quả, báo cáo kết quả 6
- + Trong nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không được ỷ laị một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vắn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc chung của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ của nhóm khá phức tạp. * Cấu tạo của một buổi học vật lí theo nhóm có thể như sau: + Làm việc chung cả lớp: Giáo viên đặt vấn đề bằng cách nêu hiện tượng hoặc làm thí nghiệm, xác định nhiệm vụ; Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ, đồ dùng thí nhgiệm (nếu có); Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm. + Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm; Thành viên trong nhóm trao đổi hoặc cùng làm thí nghiệm, thảo luận trong nhóm; Cử đại diện trình bày kết quả. + Tổng kết trước lớp: Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả; Thảo luận chung cả lớp; Giáo viên tổng kết, nhận xét buổi làm vệc. Ví dụ về phương pháp theo nhóm trong bài: BÀI 15 THỰC HÀNH: XÁC ĐỊNH CÔNG SUẤT CỦA CÁC DỤNG CỤ ĐIỆN Hoạt động 1: Tổ chức, kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh. HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS - Gọi 1 HS nêu mục tiêu cụ thể của bài thực hành này là gì ? - 1 HS nêu mục tiêu cụ thể của bài thực hành - Gọi một số HS trình bày các câu hỏi - HS hoạt động cá nhân trình bày trong phần 1 báo cáo thực hành. các câu hỏi trong báo cáo. Các 7
- HS khác lắng nghe, nhận xét, bổ xung nếu cần. - Chia nhóm, phân công nhóm trưởng các - Nhóm trưởng các nhóm phân nhóm. Yêu cầu nhóm trưởng các nhóm công nhiệm vụ cho các bạn trong phân công nhiệm vụ cho các bạn trong nhóm mình. nhóm mình. - Yêu cầu các nhóm trưởng kiểm tra và - Nhóm trưởng báo cáo việc báo cáo việc chuẩn bị của nhóm. chuẩn bị báo cáo của các thành viên trong nhóm. - Yêu cầu một trong các nhóm cho biết các - Một trong các nhóm cho biết bước cần làm để xác định công suất của các bước cần làm để xác định một bóng đèn. công suất của một bóng đèn. Hoạt động 2: Thực hành xác định công suất của bóng đèn. HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS - Yêu cầu HS thảo luận theo nhóm cách - Đại diện HS trình bày các bước tiến hành TN xác định công suất của bóng xác định công suất của bóng đèn đèn. với các hiệu điện thế khác nhau, vẽ sơ đồ mạch điện lên bảng. - Yêu cầu HS các nhóm tiến hành đo công - HS tiến hành thí nghiệm theo suất của bóng đèn theo các bước. nhóm đo công suất của bóng đèn theo các bước: + Mắc mạch điện theo sơ đồ hình 15.1 SGK sao cho biến trở có giá trị lớn nhất. + Đóng công tắc. Điều chỉnh biến trở để vôn kế có số chỉ U 1 = 8
- 1V. Đọc số chỉ của ampe kế 1, ghi kết quả vào bảng. + Làm tương tự với U2 và U3. + Tính và ghi bảng giá trị tương - Kiểm tra, hướng dẫn các nhóm HS mắc ứng của công suất. đúng ampe kế và vôn kế cũng như điều + Rút ra nhận xét về sự thay đổi chỉnh biến trở để có được hiệu điện thế đặt của công suất bóng đèn khi hiệu vào hai đầu bóng đèn đúng như yêu cầu điện thế giữa hai đầu bóng đèn ghi trong bảng 1 SGK. tăng hoặc giảm. - Lưu ý HS cách đọc kết quả đo, đọc trung - HS lưu ý cách đọc kết quả đo, thực ở các lần đo khác nhau. đọc trung thực ở các lần đo khác - Yêu cầu HS hoàn thành bảng 1 thảo luận nhau. thống nhất phần a; b - HS hoàn thành bảng 1 thảo luận thống nhất phần a; b. 3.2. Phương pháp dạy và học đặt và giải quyết vấn đề trong môn Vật lí 9. Dạy và học đặt và giải quyết vấn đề được hiểu là giáo viên hoặc học sinh tạo tình huống có vấn đề để thu hút học sinh vào quá trình nhận thức tích cực. Cơ sở thực tiễn của phương pháp này là: Trong xã hội phát triển theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết vấn đề hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo cho sự thành đạt trong cuộc sống. Vì vậy tập dượt cho học sinh phát hiện, đặt và giải quyết vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đồng là mục tiêu cơ bản trong dạy học Vật lí 9. * Cấu trúc một bài học (một phần bài học) theo dạy – học giải quyết vấn đề trong dạy học Vật lí 9 thường như sau: 9
- + Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức: Tạo tình huống có vấn đề (Giáo viên hoặc học sinh nêu hiên tượng hay làm thí nghiệm); Học sinh nhận dạng, phát hiện vấn đề nảy sinh; Học sinh phát biểu vấn đề cần giải quyết. + Giải quyết vấn đề đặt ra: Đề xuất cách giải quyết (Học sinh hoặc giáo viên); Lập kế hoạch giải quyết; Thực hiện kế hoạch giải quyết. + Kết luận: Học sinh thảo luận kết quả và đánh giá; Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra; Phát biểu kết luận; Đề xuất vấn đề mới (nếu có) Trong dạy và học đặt và giải quyết vấn đề có 4 mức độ, nhưng theo tôi nên thực hiện theo mức sau: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các dự đoán hoặc giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết và cùng giáo viên đánh giá. Ví dụ về phương pháp dạy học giải quyết vấn đề trong bài Bài 36: TRUYỀN TẢI ĐIỆN NĂNG ĐI XA Họat động của giáo viên học sinh Nội dung HOẠT ĐỘNG 1: Khởi động (5’) Mục tiêu: HS biết được các nội dung cơ bản của bài học cần đạt được, tạo tâm thế cho học sinh đi vào tìm hiểu bài mới. Phương pháp dạy học: Dạy học nhóm; dạy học nêu và giải quyết vấn đề; phương pháp thuyết trình; sử dụng đồ dung trực quan Định hướng phát triển năng lực: Năng lực thực nghiệm, năng lực quan sát, năng lực sáng tạo, năng lực trao đổi. Phẩm chất tự tin, tự lập, giao tiếp. - ở các khu dân cư thường có các trạm biến áp. Trạm biến áp dùng để làm gì? - Vì sao các trạm biến áp thường ghi các kí hiệu nguy hiểm, không lại gần? - Tại sao trên đường dây tải điện có hiệu điện thế lớn? Làm thế có lợi gi? ->Bài mới. 10