Báo cáo Sáng kiến Phương pháp làm các dạng đề văn biểu cảm về sự vật, con người
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Sáng kiến Phương pháp làm các dạng đề văn biểu cảm về sự vật, con người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bao_cao_sang_kien_phuong_phap_lam_cac_dang_de_van_bieu_cam_v.doc
Nội dung text: Báo cáo Sáng kiến Phương pháp làm các dạng đề văn biểu cảm về sự vật, con người
- BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Phương pháp làm các dạng đề văn biểu cảm về sự vật, con người”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác dạy học môn Ngữ văn lớp 7 Trường Trung học cơ sở. 3. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Huệ. Giới tính: Nữ. Ngày tháng năm sinh: Ngày 27 tháng 05 năm 1979. Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Văn. Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Hợp Hưng, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. - Điện thoại: 0975.810.500. Email: nguyenhue579@gmail.com - Tỉ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến: 100%. 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Hợp Hưng. Địa chỉ: Đông Hợp - Huyện Đông Hưng - Tỉnh Thái Bình. 5. Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2019 - 2020, 2020 - 2021. 1
- II. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến “Phương pháp làm các dạng đề văn biểu cảm về sự vật, con người”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác dạy học môn Ngữ văn lớp 7 trường Trung học cơ sở. 3. Bản chất của sáng kiến 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết. M.L.Kalinine cho rằng: “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn”. Mỗi chúng ta đều biết, văn học có đặc trưng riêng và chính đặc trưng đó làm nên điều kì diệu của văn học. Văn học không chỉ mang lại cho ta những hiểu biết về cuộc đời, về con người, về xã hội; đời xưa, đời nay và cả những khát khao về một tương lai tốt đẹp mà còn là vũ khí thanh tao, đắc lực có tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của con người. Văn học giúp con người tự nhận thức, tự xây dựng nhân cách và cách sống tích cực cho bản thân. Văn học còn khơi dậy trong ta những tư tưởng, tình cảm, khát vọng cao đẹp:“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý” (Mác-xim Goóc- ki). Văn bản văn chương chắp cánh để tất cả chúng ta đến với một thời đại văn minh, đến với mọi miền đất nước, mọi nền văn hóa dân tộc, xây dựng cho chúng ta niềm tin vào cuộc sống, trang bị cho chúng ta vốn kiến thức, vốn sống, hướng con người vươn tới đỉnh cao của cái đẹp trong cuộc sống. Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa thì việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, một yêu cầu bức thiết đối với tất cả các cấp học, bậc học nước ta. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc đổi mới, giáo viên chỉ chú trọng đến việc đổi mới trong tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, hoàn thiện các bước dạy theo hướng đổi mới, chứ chưa chú trọng đến việc rèn phương pháp viết bài cho học sinh mà nhiều khi vẫn còn tình trạng dạy văn mẫu cho học sinh chép và học thuộc khiến học sinh không hiểu được bản chất của vấn đề. Chính vì vậy, người dạy phải sớm tìm ra giải pháp phù hợp để khắc phục những khó khăn và đem lại hiệu quả cao cho việc dạy và học môn văn. Với đối tượng học sinh lớp 7 các em còn dễ bị nhầm lẫn giữa các phương thức tự sự, miêu tả với biểu cảm. Các em còn e dè trong việc bộc lộ cảm xúc của bản thân trước sự vật, con người. Các dạng bài tập làm văn này khá đa dạng, đòi hỏi học sinh phải có kiến thức về tự nhiên, xã hội. Điều đó cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc học môn văn nói chung và phần văn biểu cảm nói riêng. Đó là những trăn trở, suy nghĩ của đội ngũ nhà giáo - những người sẵn sàng hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giáo dục. Chính vì vậy, mỗi giáo viên chúng ta không ngừng tìm tòi sáng tạo, học hỏi đồng nghiệp để tìm ra phương pháp dạy học tối ưu nhất và phù hợp với học sinh. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi luôn mong muốn các em có được kĩ năng làm bài tốt nhất. Trên cơ sở đó, từ những suy nghĩ của mình, tôi đã áp dụng một số giải pháp và thấy được kĩ năng viết văn biểu cảm của các em có nhiều tiến bộ. 2
- Năm học 2019 - 2020, 2020 - 2021 tôi được phân công giảng dạy môn ngữ văn 7. Tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” (Văn 7 - tập 1). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó quả là đáng lo ngại, thực trạng vấn đề này ra sao ? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm ? cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS ? Đó là những vấn đề tôi trăn trở, day dứt, muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 3.2.1. Giải pháp 1: Phương pháp tìm hiểu văn biểu cảm và đặc điểm của văn bản biểu cảm về sự vật, con người. 3.2.1.1. Mục đích của giải pháp Học sinh muốn làm tốt bài văn biểu cảm về sự vật, con người thì phải hiểu được văn biểu cảm nảy sinh là do nhu cầu biểu cảm của con người. Tình cảm được thể hiện trong văn biểu cảm về sự vật, con người thường là biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp cũng như phân biệt các yếu tố đó trong văn bản. Từ đó giúp các em hiểu được các đặc điểm cụ thể của bài văn biểu cảm về sự vật, con người là thường mượn cảnh vật, đồ vật, con người để bày tỏ tình cảm, cảm xúc. 3.2.1.2. Nội dung của giải pháp * Về kiến thức văn biểu cảm. Văn biểu cảm còn gọi là văn trữ tình; bao gồm các thể loại văn học như thơ trữ tình, ca dao trữ tình, tuỳ bút,... Văn biểu cảm là văn bản nhằm biểu đạt, nhận xét, tình cảm, cảm xúc của tác giả đối với thế giới xung quanh (con người, cảnh vật, thiên nhiên,...) và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. Văn biểu cảm là văn bản trong đó tác giả, tức người viết, người làm văn sử dụng phương tiện ngôn ngữ và hình ảnh thực tế để biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình. Phương tiện ngôn ngữ bao gồm nhiều mặt, từ từ ngữ đến hình thức câu văn, từ vần điệu, cách ngắt nhịp trong thơ đến các biện pháp tu từ,... Văn biểu cảm còn sử dụng các hình ảnh lấy từ thực tế như phong cảnh, cây cỏ, con người, sự việc,... làm phương tiện biểu đạt. Ví dụ: Bà tôi đã bước sang tuổi sáu lăm. Sau trận ốm kéo dài bà đã bình phục dần, đi lại được, đi từ trong nhà ra sân, ra ngõ, ra vườn. Một bữa bà đã ăn được nửa bát cơm. Bố mẹ tôi mừng lắm. Các cháu mừng lắm. Vợ chồng cô Huệ chủ nhật nào cũng đưa con sang thăm bà. Chiều nay đi học về, bỏ túi sách ra, treo mũ lên giá, tôi cất tiếng gọi rối rít và chạy đến ôm lấy bà. Bà vuốt tóc cháu. Bà hỏi cháu chuyện học ở trường. Bà khen khi nghe cháu khoe được hai điểm 10. Tay bà đang cầm cái hộp nữ trang, bà mở ra, nhẹ nhàng nói: “Những cái này là của cụ mua cho bà thời con gái, cái nhẫn này là của 3
- ông mua tặng bà. Khi nào bà đi gặp ông cháu thì bà cho riêng cháu Hường đề làm kỉ niệm...”. Tôi ôm chặt lấy bà. Tóc bà bạc phơ, mùi hương nhu toả ra như thấm vào tâm hồn cháu. Tay bà thon nhỏ xanh xao. Cầm lấy đôi bàn tay bà, tôi khẽ nói: “ Bà ơi! Bà đi gặp ông thì cháu đau buồn lắm, cháu ở với ai, hở bà...”. bà im lặng. Nước mắt bà ứa ra. Nắng chiều vàng nhạt. Tiếng chim chích choè lảnh lót hót từ góc vườn vọng vào. Bà lặng lẽ nhìn ra góc vườn rồi nói; “Rằm tháng Sáu sắp tới là ngày giỗ ông cháu. Không biết chuối vườn ta có chín kịp không. Trước đây, ông cháu thích ăn chuối lắm. Chuối trong vườn đều do ông trồng cả đấy...”. Tôi bâng khuân nghe bà nói. Nước mắt chảy tràn ra. (Ngày tháng Tư bên bà nội - Nguyễn Thị Kim Hường) * Về chất cảm xúc. Chất cảm xúc hàm chứa trong tác phẩm biểu cảm thường là những tình cảm đẹp, thấm đượm tư tưởng nhân văn như yêu thiên nhiên, yêuTổ quốc, yêu đồng loại, yêu tạo vật; cũng có thể là sự căm ghét... mọi xấu xa, độc ác; có khi là những trạng thái của tâm hồn như buồn, vui, thương nhớ... * Tình cảm trong văn biểu cảm: Biểu cảm bằng văn là bộc lộ tình cảm, cảm xúc chủ quan của con người bằng ngôn từ, khác với biểu cảm trong thực tế, hễ đau đớn thì khóc lóc, vui sướng thì cười hả hê,... Biểu cảm bằng văn là bộc lộ những cảm xúc mà người viết cảm thấy ở trong lòng, những ấn tượng thầm kín về con người, sự vật, những kỉ niệm hồi ức, gợi nhớ đến người, đến việc, bộc lộ tình cảm yêu ghét, mến thân đối với cuộc đời. Do vậy biểu cảm là biểu hiện những tình cảm, cảm xúc dấy lên ở trong lòng mà mình muốn truyền cho người đọc. Chẳng hạn câu ca dao: Thân em như chẽn lúa đòng đòng/ Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Đã thể hiện cảm xúc hạnh phúc của tác giả, một người đang cảm thấy mình như chẽn lúa đòng đòng được phơi mình tự do dưới ánh nắng hồng ấm áp. Tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn như: yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, ghét thói tầm thường, độc ác,... Tình cảm trong văn biểu cảm được biểu hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Biểu cảm trực tiếp là phương thức (cách thức) trữ tình bộc lộ những cảm xúc, ý nghĩ thầm kín bằng những từ ngữ trực tiêp gọi ra tình cảm ấy, bằng những lời hỏi, lời than như ôi, hỡi ôi,... Chẳng hạn như đoạn văn sau: Ôi! Cô giáo rất tốt của em, không chẳng bao giờ, chẳng bao giờ em lại quên cô được! Sau này, khi em đã lớn, em sẽ vẫn nhớ đến cô, và em sẽ tìm gặp cô giữa một đám học trò nhỏ. Mỗi bận đi ngang qua một trường học và nghe tiếng một cô giáo giảng bài, em sẽ tưởng chừng như nghe tiếng nói của cô. Trong đoạn văn, người xưng “em” đang bày tỏ cảm xúc của mình đối với một cô giáo qua những lời ngợi ca, hứa hẹn trong tình huống tưởng tượng. Biểu cảm gián tiếp là cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình thông qua miêu tả một phong cảnh, kể một câu chuyện hay gợi ra một suy nghĩ, liên tưởng nào đó mà không gọi thẳng cảm 4
- xúc ấy ra. Cách thể hiện này thường thấy trong thơ và trong văn xuôi, ví dụ như câu ca dao trên hoặc đoạn văn sau: Từ cổng vào, lần nào tôi cũng phải dừng lại ngắm những cây hải đường trong mùa hoa của nó, hai cây đứng đối nhau trước tấm bình phong cổ, rộ lên hàng trăm đóa ở đầu cành phơi phới như một lời chào hạnh phúc. Nhìn gần, hải đường có một màu đỏ thắm rất quý, hân hoan, say đắm. Tôi vốn không thích cái lối văn hoa của các nhà nho cứ muốn tôn xứng hoa hải đường bằng hình ảnh của những người đẹp vương giả. Sự thực ở nước ta, hải đường đâu phải chỉ mọc nơi sân nhà quyền quý, nó sống khắp các vườn dân, cả đình, chùa, nhà thờ họ. Dáng cây cũng vậy, lá to thật khỏe, sống lâu nên cội cành thường sần lên những lớp rêu da rắn màu rỉ đồng, trông dân dã như cây chè đất đỏ. Hoa hải đường rạng rỡ, nồng nàn, nhưng không có vẻ gì là yểu điệu thục nữ, cánh hoa khum khum như muốn phong lại cái nụ cười má lúm đồng tiền. Bỗng nhớ năm xưa, lần đầu từ miền Nam ra Bắc lên thăm Đền Hùng, tôi đã ngẩn ngơ đứng ngắm hoa hải đường nở đỏ núi Nghĩa Lĩnh. (Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường) Đây là đoạn văn là văn biểu cảm. Vì đoạn văn đã bộc lộ tình cảm thích hoa hải đường của tác giả. Sự yêu thích đó được biểu lộ qua cái nhìn tưởng tượng chủ quan của tác giả về hoa hải đường (“phơi phới như một lời chào hạnh phúc”, “trông dân dã như cây chè đất đỏ) biểu lộ trực tiếp bằng lời văn (“màu đỏ thắm rất quý, hân hoan, tay đắm”, “rạng rỡ nồng nàn”, “ngẩn ngơ đứng ngắm hoa hải đường”). Ngoài cách biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, văn biểu cảm còn sử dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khơi gọi tình cảm. Chẳng hạn: “Hắn về lần này trông khác hằn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai con mắt gườm gườm trong gớm chết! Hắn mặt cái quần nái đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết! ( Chí Phèo - Nam Cao ) * Về các yếu tố khác. Chất trữ tình là yếu tố chủ đạo, yếu tố chính của văn biểu cảm. Ngoài ra còn có các yếu tố phụ như miêu tả, tự sự, nghị luận. Các yếu tố này chỉ có tác dụng bổ sung, nhằm làm nổi bật yếu tố chủ đạo là chất trữ tình, biểu cảm. * Đặc điểm của bài văn biểu cảm về sự vật con người: • Nhân vật trữ tình: Trong văn biểu cảm nói chung, văn biểu cảm về sự vật, con người nói riêng thường có hai nhân vật trữ tình: nhân vật chủ thể trữ tình và nhân vật đối tượng trữ tình. Nhân vật chủ thể trữ tình trong văn biểu cảm về sự vật, con người có thể là “tôi”, có thể là tác giả cũng có thể là sự hoá thân của tác giả đã và đang bộc lộ cảm xúc. Nhân vật đối tượng trữ tình là người, là người, cảnh vật, sự vật, mà nhân vật trữ tình đã và đang hướng tới, đã và đang bày tỏ. Chẳng hạn đoạn văn “Ngày tháng Tư bên bà nội” (nêu trên) thì nhân vật chủ thể trữ tình là “tôi”, cũng là tác giả Nguyễn Thị Kim Hường. Còn nhân vật đối tượng trữ tình là người bà kính yêu của nhân vật “tôi”. • Cảm xúc trữ tình: Trong một văn bản biểu cảm, cảm xúc trữ tình rất đa dạng và nhiều sắc thái. Có thể là yêu, nhớ, thương . Có thể là giận, hờn, căm, ghét Có 5
- thể là ước mơ, hi vọng, Văn bản biểu cảm hay, đặc sắc là ở chiều sâu cảm xúc trữ tình. Đọc thơ tình, ta dễ dàng nhận ra điều đó. Cảm xúc phải chân thực, nhân văn. Đọc một số bài văn tế cổ, một số bài phú nôm của tiền nhân, ta thấy cảm xúc dạt dào. Chẳng hạn như đoạn văn sau: “Than ôi! Thông minh nhất đời, đọc rộng các sách, trước thuật văn chương đủ dạy đời và lưu truyền về sau. Nước ta trong vài trăm năm mới có một người như thầy, sao chẳng thọ thêm để làm khuôn phép cho đệ tử? Trông theo chẳng kịp, đau lòng xiết bao! Than ôi! Ôi! Đau đớn thay! Trời làm mất thầy ta, muôn đời vắng ngắt sông núi uất sầu, dâng chén đau lòng, tinh thần của thầy có về chứng giám cho chăng?” (trích Bài văn tế của học trò Quế Đường tiên sinh). • Lời văn trong văn biểu cảm về sự vật, con người: cần sử dụng nhiều câu cảm thán, thiên về sự nhẹ nhàng, trong sáng. Các so sánh, ẩn dụ, nhân hoá được tác giả quan tâm đặc biệt. Yếu tố tưởng tượng làm cho lời văn và ý tưởng cất cánh bay bổng. Chẳng hạn đọc đoạn văn sau: “Đẹp quá đi mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác. Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột. (Thương nhớ mười hai - Vũ Bằng) Giáo viên cần cho học sinh thấy rõ mỗi bài văn biểu cảm về sự vật, con người thường tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu. Để biểu đạt tình cảm ấy người viết có thể lựa chọn một hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng (là một đồ vật, loài cây hay một con người nào đó ) để gửi gắm tình cảm, tư tưởng hoặc biểu đạt bằng cách thổ lộ trực tiếp những nỗi niềm, cảm xúc trong lòng. Tình cảm trong bài văn phải được biểu hiện cụ thể rõ ràng, trong sáng, chân thực thì bài văn biểu cảm mới có giá trị. Ví dụ: Phượng cứ nở. Phượng cứ rơi. Bao giờ cũng có hoa phượng rơi, bao giờ cũng có hoa phượng nở. Nghỉ hè đã đến.Học sinh sửa soạn về nhà. Nhà chưa về, cái vui gia đình đâu chửa thấy, chỉ thấy xa trường, rời bạn, buồn xiết bao!Những cuộc tình duyên giữa bạn bè, đến lúc rẽ chia, cũng rẽ chia dưới màu hoa phượng; dù hữu tâm, dù vô tình, người nào cũng có sắc hoa phượng nằm ở trong hồn.Phượng xui ta nhớ cái gì đâu.Nhớ người sắp xa, còn đứng trước mặt... Nhớ một trưa hè gà gáy khan Nhớ một thành xưa son uể oải Thôi học trò đã về hết, hoặc hoa phượng ở lại một mình.Phượng đứng canh gác nhà trường, sân trường. Hè đang thịnh, mọi nơi đều buồn bã, trường ngủ, cây cối cũng ngủ.Chỉ có hoa phượng thức để làm vui cho cảnh trường.Hoa phượng thức, nhưng thỉnh thoảng cũng mệt nhọc, muốn lim dim.Gió qua, hoa giật mình, một cơn hoa rụng. 6
- Cứ như thế, hoa - học - trò thả những cánh son xuống cỏ, đếm từng giây phút và xa bạn học sinh! Hoa phượng rơi, rơi Hoa phượng mưa. Hoa phượng khóc. Trường tẻ ngắt, không tiếng trống, không tiếng người. Hoa phượng mơ, hoa phượng nhớ. Ba tháng trời đằng đẵng. Hoa phượng đẹp với ai, khi học sinh đã đi cả rồi! (Theo Xuân Diệu) 3.2.2. Giải pháp 2: Phương pháp tìm hiểu đề và cách làm bài văn bản biểu cảm về sự vật, con người. 3.2.2.1. Mục đích của giải pháp Giáo viên hướng dẫn học sinh phải nắm được các đặc điểm của đề bài văn biểu cảm, nắm được các kiểu đề văn biểu cảm và các bước làm bài văn biểu cảm. Giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện các kĩ năng nhận diện đề văn biểu cảm về sự vật con người, biết phân tích đề và lập dàn ý cho bài văn biểu cảm về sự vật, con người. 3.2.2.2. Nội dung của giải pháp * Đề bài văn biểu cảm về sự vật con người: Đề bài văn biểu cảm về sự vật, con người bao giờ cũng nêu ra đối tượng biểu cảm là sự vật, con người và định hướng cho tình cảm của bài làm, cho nhân vật trữ tình. Ví dụ: Đề bài 1: Cảm nghĩ của em về dòng sông quê hương. Đề bài 2: Cảm nghĩ về thầy cô giáo, những người lái đò đưa thế hệ trẻ “cập bến” tương lai. Đề bài 3: Cảm nghĩ về một con vật nuôi mà em yêu thích. Đề bài 4: Loài cây em yêu. Đề bài 5: Vui buồn tuổi thơ. Với mỗi đề bài như vậy giáo viên cần hướng dẫn cho các em cách tìm các từ khoá trong đề để xác định đúng đối tượng và cảm xúc mà đề yêu cầu. Ví dụ: Đề 1: Cảm nghĩ của em về dòng sông quê hương. Đề 4: Loài cây em yêu. * Các bước làm bài văn biểu cảm về sự vật con người: • Tìm hiểu đề và tìm ý: Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách đặt câu hỏi: Đối tượng cảm nghĩ mà đề nêu ra là gì? Em hình dung và hiểu như thế nào về đối tượng ấy? Với đề bài 1, giáo viên hướng dẫn các em tìm hai ý sau: dòng sông quê hương và tình yêu dòng sông, những kỉ niệm về dòng sông. Với đề bài 4: có các ý sau: giống cây mà em thích nhất và tình cảm, ý nghĩ về giống cây đó. Với đề bài 5: những kỉ niệm tuổi thơ với những vui buồn và suy nghĩ về những kỉ niệm đó. • Lập dàn bài: Hãy sắp xếp các ý theo bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. 7
- Ví dụ: Đề bài 4: Loài cây em yêu. Mở bài: Giới thiệu về loài cây em yêu. Thân bài: Biểu cảm về các đặc điểm của cây: Em thích màu của lá cây, . Cây đơm hoa vào tháng và hoa đẹp như Những trái cây lúc nhỏ lúc lớn và khi chín gợi niềm say sưa hứng thú ra sao. Miêu tả lại niềm thích thú khi được hái những trái cây và thưởng thức nó. Mỗi khi mùa quả qua đi, trong em lại nhóm lên một cảm giác đợi mong mùa quả mới như thế nào? Với riêng em, em thích nhất đặc điểm gì ở loài cây đó? Có thể kể một kỉ niệm sâu sắc của bản thân với loài cây trên (ví dụ: kỉ niệm đầu tiên khiến em yêu thích loài cây đó, ). Kết bài: Khẳng định lại tình cảm yêu quý của em với loài cây. • Viết bài: Dựa vào dàn bài và dự kiến cách viết từng phần của bài làm thế nào để bày tỏ cho hết cảm xúc của em với đối tượng mà em yêu quý. Đây là bước quan trọng. Trên cơ sở là dàn bài đã xây dựng, người viết triển khai thành bài văn hoàn chỉnh. Cần lưu ý là trong quá trình diễn đạt phải biết kết hợp với các phương thức biểu đạt khác (miêu tả, tự sự, nghị luận); đồng thời phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp ngữ, nói quá ). Câu văn có sự biến hoá linh hoạt (có câu trần thuật, câu cảm, câu nghi vấn, câu cầu khiến; câu dài, câu ngắn; có câu tỉnh lược, câu miêu tả, câu tồn tại ). Lời văn phải có cảm xúc với vốn từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm. • Sửa bài: Sau khi viết xong, cần đọc lại và sửa chữa bài để bớt những ý thừa, thêm những ý thiếu và kiểm tra các lỗi về chính tả, về ngữ pháp... Ngoài việc kiểm tra cách diễn đạt, sửa lỗi cần phải kiểm tra lại xem văn bản đã toát lên tư tưởng, tình cảm chính chưa, hoặc đã tạo được sự xúc động cho người đọc chưa. 3.2.3. Giải pháp 3: Phương pháp lập ý của văn bản biểu cảm về sự vật, con người. 3.2.3.1. Mục đích của giải pháp Học sinh muốn làm tốt bài văn biểu cảm về sự vật, con người thì phải nắm được các cách lập ý đa dạng của bài văn để có thể mở rộng phạm vi, kĩ năng làm bài. Đồng thời giáo viên cần củng cố kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý cho bài văn biểu cảm. Cùng với đó người giáo viên phải kích thích được ý thức ham học hỏi, có ý thức rèn kĩ năng làm văn biểu cảm về sự vật, con người của học sinh. 3.2.3.2. Nội dung của giải pháp Giáo viên giúp học sinh nắm được các cách lập ý của bài văn biểu cảm về sự vật, con người. Tất cả những cách lập ý này cũng là phần lập ý của bài văn biểu cảm nói chung. 8
- Lập ý là suy nghĩ để tìm ra ý, từ đó sắp xếp các ý để có thể bày tỏ cảm xúc, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách chân thật và tế nhị. Có những cách lập ý trong bài văn biểu cảm về sự vật, con người như sau: * Liên hệ hiện tại với tương lai. Là hình thức dùng trí tưởng tượng để liên tưởng tới tương lai, mượn hình ảnh tương lai để khơi gợi cảm xúc về đối tượng biểu cảm trong hiện tại. Cách biểu cảm này tạo nên mối quan hệ gắn kết rất và tự nhiên và nhuẫn nhuyễn giữa hiện tại với tương lai. * Hồi tưởng quá khứ và suy nghĩ hiện tại: Là hình thức liên tưởng tới những kí ức trong quá khứ, gợi sống dậy những kỉ niệm để từ đó suy nghĩ về hiện tại. Đây cũng là hình thức lấy quá khứ soi cho hiện tại khiến cho cảm xúc của con người trở nên sâu lắng hơn. Cách biểu cảm này sẽ tạo nên mối liên hệ gắn kết rất tự nhiên và nhuần nhuyễn giữa hiện tại và quá khứ. * Tưởng tượng tình huống, hứa hẹn, mong ước: Là hình thức liên tưởng phong phú, từ những hình ảnh thực đang hiện hữu để đặt ra các tình huống và gửi gắm vào đó những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng biểu cảm cũng như những ước mơ hi vọng. Cách biểu cảm này đòi hỏi người viết văn biểu cảm phải có trí tưởng tượng phong phú. * Quan sát, suy ngẫm: Là hình thức liên tưởng dựa trên sự quan sát những hình ảnh đang hiện hữu trước mắt để có những suy ngẫm về đối tượng biểu cảm. Cách lập ý thường tạo nên những cảm xúc chân thực, sâu sắc. Để tạo lập ý cho bài văn biểu cảm về sự vật, con người, khơi nguồn cho mạch cảm xúc nảy sinh, người viết có thể hồi tưởng kỉ niệm quá khứ, suy nghĩ về hiện tại, mơ ước tới tương lai, tưởng tượng những tình huống gợi cảm hoặc vừa quan sát vừa suy ngẫm, vừa thể hiện cảm xúc. Nhưng dù cách gì thì tình cảm trong bài văn cũng phải chân thực và sự việc được nêu ra phải có trong kinh nghiệm. Được như thế bài văn mới làm cho người đọc tin và đồng cảm. Ví dụ: Cách lập ý cho đề văn: Cảm xúc về khu vườn của nhà em. Xác định, hình dung khu vườn nhà em từng có, đang có, hoặc mơ ước có; xác định vị trí trong không gian, thời gian của người viết đới với khu vườn. Nếu là ở xa thì hoài niệm về vườn nhà. Tiếp theo người viết cần miêu tả sự gắn bó với đời sống gia đình em như thế nào; hiện tại hay lâu đời. Nêu cảm xúc nếu thiếu nó thì cuộc sống của gia đình em sẽ ra sao? Có thể nghĩ đến công lao, ý nguyện của người tạo lập nên khu vườn để bày tỏ lòng biết ơn. Nếu chẳng may phải bán vườn cho người khác, em cảm thấy nuối tiếc ra sao. 3.2.4. Giải pháp 4: 9
- Phương pháp đưa các yếu tố tự sự và miêu tả vào trong văn bản biểu cảm về sự vật, con người. 3.2.4.1. Mục đích của giải pháp Giáo viên giúp học sinh hiểu được vai trò của các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn biểu cảm về sự vật, con người và có ý thức sử dụng chúng trong quá trình làm bài. Đồng thời người giáo viên cũng cần rèn luyện kĩ năng nhận diện, phân tích, vận dụng các yếu tố tự sự, miêu tả trong bài văn biểu cảm về sự vật, con người. Từ đó bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trong sáng, giàu tính nhân văn. 3.2.4.2. Nội dung của giải pháp Yếu tố tự sự có tác dụng gợi cảm rất lớn nhất là khi kể các hành động cao cả, nghĩa khí, vị tha hoặc các hành vi khác. Tuy nhiên yếu tố tự sự trong truyện và trong văn biểu cảm lại không giống nhau. Trong truyện yếu tố tự sự làm cho tình tiết gay cấn, hấp dẫn, gây đợi chờ; còn trong văn biểu cảm cái quan trọng là ý nghĩa sâu xa của sự việc buộc người ta nhớ lâu và suy nghĩ, cảm xúc về nó. Yếu tố miêu tả có tác dụng khêu gợi sức cảm thụ và tưởng tượng. Miêu tả chân thật có sức gợi cảm lớn. Muốn phát biểu cảm nghĩ của mình về sự vật, con người xung quanh hãy dùng phương thức tự sự và miêu tả để để gợi ra đối tượng biểu cảm và gửi gắm cảm xúc. Tự sự và miêu tả ở đây nhằm khêu gợi cảm xúc, do cảm xúc chi phối chứ không nhằm mục đích kể chuyện. Đối tượng biểu cảm trong một bài văn biểu cảm là cảnh vật, con người sự việc Không có sự biểu cảm chung chung. Cái gì, vật gì, việc gì làm ta xúc động? Vì thế muốn bày tỏ tình cảm, muốn bộc lộ cảm xúc người viết phải thông qua miêu tả và tự sự. Ví dụ: Bài tập trang 89- SGK Ngữ văn 7- tập I: “ Tuổi thơ tôi đã hằn sâu trong kí ức những ngọn núi trông xa lấp lánh như kim cương, lúc xanh mờ, khi xanh thẫm, lúc tím lơ, khi rực rỡ như núi ngọc màu xanh. Những năm tháng xa quê, dông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất cả, nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông quê mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy, những dòng kinh biêng biếc vẫn lặng lờ trôi. Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa, mù mù khói rạ, thơm vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau tết. Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thăm thẳm canh khuya. Tôi yêu ánh nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì, nghiêng nghiêng bên triền núi.” ( Theo Tản văn Mai Văn Tạo) Đọc đoạn văn trên ta thấy, Mai Văn Tạo nhớ An Giang, nhớ quê mẹ là nhớ ngọn núi, nhớ dòng sông, những cánh đồng, tiếng chuông chùa, ánh nắng chiều tà . Tác giả vừa miêu tả, vừa bộc lộ cảm xúc. Có thể nói, cảnh sắc An giang được nhắc tới là xương thịt của bài văn; tình yêu, nỗi nhớ niềm tự hào quê mẹ là linh hồn bài văn. Như vậy, để biểu cảm về quê hương An Giang, nhà văn đã sử dụng phương thức tự sự và miêu tả. Trong bài văn biểu cảm, tự sự và miêu tả chỉ là phương tiện, là yếu tố để qua đó, người viết gửi gắm cảm xúc và ý nghĩ. Cảm xúc, ý nghĩ là chất trữ tình của bài văn. 10