Báo cáo Sáng kiến Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Sáng kiến Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bao_cao_sang_kien_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_h.doc
1 Bia.doc
Nội dung text: Báo cáo Sáng kiến Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7
- BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1.Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt lớp 7” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác dạy học môn Ngữ văn lớp 7 Trường Trung học cơ sở. 3. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Huệ Giới tính: Nữ Ngày tháng năm sinh: Ngày 27 tháng 05 năm 1979. Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Văn. Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Hợp Hưng, xã ĐôngHợp, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Điện thoại: 0975.810.500. Email: nguyenhue579@gmail.com Tỉ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến: 100% 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Hợp Hưng Địa chỉ: xã Đông Hợp - huyện Đông Hưng - tỉnh Thái Bình 5. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2018 - 2019
- II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM A. PHẦN MỞ ĐẦU. 1. Tính cấp thiết, lý do, mục tiêu chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm. - Môn Ngữ Văn chính là môn dạy đạo đức và nhân cách cho các em học sinh. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và phát triển tư duy của con người nhất là người học sinh. - Môn ngữ văn cũng là môn học có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Bởi văn học giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp, hiểu biết về thế giới bên ngoài xã hội và con người.Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp các em học tốt hơn các bộ môn khoa học khác. - Nhưng trên thực tế, phần lớn học sinh không thích học môn học này, thậm chí có em còn sợ mỗi khi đến giờ học văn. Đặc biệt là những tiết học Tiếng Việt, các em vẫn thường cho rằng nó khô khan, phức tạp và tẻ nhạt. - Một thực tế nữa là hiện nay việc dạy ngữ pháp tiếng việt trong trường phổ thông cơ sở chưa được đầu tư nhiều so với giờ học văn bản. Bởi giờ dạy tiếng việt thường khô khan, lượng kiến thức nhiều, quá tải với học sinh nhất là học sinh lớp 7. Đó là điều khiến tôi thật sự trăn trở. Những suy nghĩ đó đã thôi thúc tôi không ngừng học hỏi, nghiên cứu các phương pháp mới để dạy tốt môn Ngữ văn nói chung đặc biệt là phân môn Tiếng Việt . Đó là lý do tôi chọn đề tài này: “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt lớp 7” trong năm học này, năm học 2018 - 2019. 2. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu. - Đối tượng: Học sinh trường THCS Hợp Hưng, xã Đông Hợp, huyện Đông Hưng. - Phạm vi: Môn tiếng việt lớp 7. - Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành bài viết này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- * Nghiên cứu tài liệu có liên quan : + Sách giáo khoa lớp 7. + Sách giáo viên, Sách thiết kế dạy học Ngữ văn 7. + Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS. + Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên 6,7,8,9 các chu kì: 2005 - 2007; 2007 - 2009; 2009 - 2011; 2011 - 2013. + Phương pháp dạy - học Tiếng Việt. ( ĐHSP Hà Nội ) * Điều tra, dự giờ, thực nghiệm. * Đàm thoại, kiểm tra, đối chiếu số liệu trước và sau khi áp dụng phương pháp tích cực vào tiết dạy. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN - Thực hiện nghị quyết số 40/2000/QH10 của quốc hội. Chỉ thị số 14/2001/CT- TTg của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình giáo dục. - Thực hiện chương trình thay sách giáo khoa được ban hành kèm theo quyết định số 03/ 2002/ QĐ-BGD&ĐT ngày 24 tháng 01 năm 2002 của bộ trưởng Bộ GD&ĐT. - Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn không nhiều tiết nhưng không phải vì thế mà chúng ta không quan tâm đến phân môn này. Tiết Tiếng Việt thường tạo cho học sinh tâm lí ngại học bởi lẽ các em cảm thấy những từ loại, dấu câu, kiểu câu thật khó và khô khan, khác hẳn một tiết học văn thơ du dương và trầm bổng. Vì chương trình được biên soạn theo hướng tích hợp ngang và tích hợp dọc nên đòi hỏi người giáo viên phải chú ý đến hệ thống kiến thức trên cả hai phương diện. Hơn nữa, dạy Tiêng Việt hiện nay cần chú ý đến dạy học theo quan điểm giao tiếp; thông qua việc học Tiếng Việt, học sinh có thể nói tốt, viết tốt. Cũng chính vì vậy trong rất nhiều phương pháp, giáo viên cần phải lựa chọn phương pháp nào phù hợp để hỗ trợ đắc lực trong một tiết Tiếng Việt mà vẫn thực hiện đúng theo quan điểm tích hợp của Bộ giáo dục và đào taọ: Thầy hướng dẫn - trò chủ động, sáng tạo thực hiện. Đó là phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả cao trong quá trình thực hiện.
- II. THỰC TRẠNG 1. Thực trạng 1.1. Thuận lợi. - Chương trình Ngữ văn mặc dù đã đổi mới, song vẫn giữ nguyên ba phân môn là Văn bản - Tiếng Việt - Tập làm văn. Chương trình không trình bày riêng biệt từng phân môn mà luôn tìm ra sự đồng qui giữa ba phân môn để qua đó thực hiện quan điểm tích hợp. - Hầu hết tất cả các giáo viên trong tổ Khoa học xã hội của trường đều nhiệt tình trong công tác giảng dạy, có ý thức trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dạy và học - Học sinh có hứng thú trong học tập. Nhiều em biết cách dùng từ, đặt câu chuẩn xác, viết đoạn văn hay, biết viết câu mở đoạn, biết sử dụng câu đơn và câu ghép hợp lí trong đoạn văn. - Dạy học văn bản nói chung, phân môn Tiếng việt nói riêng đặc biệt là phát hiện các biện pháp tu từ, cách dùng từ, đặt câu, người giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát hiện được: cách nhận biết, cách tìm hiểu giá trị nghệ thuật, cách vận dụng các phép tu từ trong khi nói và viết, cách sử dụng câu, từ, cách chuyển đổi câu từ đó giúp các em cảm nhận được giá trị và ý nghĩa của môn học Tiếng việt. 1.2. Khó khăn - Một bộ phận học sinh lớp 7 chưa ý thức về việc học môn Ngữ Văn. - Vẫn còn một số em học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm, đặc biệt là kĩ năng cơ bản trong việc dùng từ, đặt câu, dựng đoạn còn lúng túng - Một số học sinh lười học, không chịu suy nghĩ động não trong quá trình làm bài tập. Một số học sinh thậm chí không phân biệt được các loại câu, các thành phần chính và thành phần phụ của câu nên dẫn đến việc hiểu sai hoặc hiểu chưa rõ về giá trị của môn học.
- - Trong mỗi bài kiểm tra tiếng việt các em còn rất lúng túng khi xác định các phép tu từ và thành phần câu, kiểu câu, cách chuyển đổi câu trong mỗi đoạn thơ, đoạn văn. 2. Nguyên nhân của những hạn chế cần khắc phục 2.1. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau. - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. - Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh . - Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. 2.2. Đối với học sinh: - Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn. - Địa phương xã Đông Hợp hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học. - Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập. III. GIẢI PHÁP 1. Giải pháp, biện pháp thực hiện - Trong những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7 cũng như trao đổi cùng
- các đồng nghiệp tôi nhận thấy hầu hết học sinh đều yêu thích môn Ngữ văn bởi đó là môn học chính, bắt buộc. Tuy nhiên chất lượng bộ môn Ngữ văn , nhất là việc tìm ra phương pháp học phân môn Tiếng Việt qua các năm lại chưa cao, đặc biệt là cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, cách viết ccaau có đủ hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ lại rất hạn chế. Để tạo cho học sinh niềm hứng thú và say mê trong học tập từ đó giúp cho các em phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen dùng từ đặt câu tôi đã dùng nhiều phương pháp hỗ trợ các em học tập. - Khi thực hiện nội dung này bản thân tôi là giáo viên tin học cũng thấy mình trở nên năng động, sáng tạo, phát huy được chuyên môn của mình hơn rất nhiều. 2. Đối tượng, thời gian cách thức tổ chức - Kiểm tra việc học tập phân môn Tiếng việt năm học 2017 - 2018 của học sính lớp 7A1, trường THCS Hợp Hưng - Qua kiểm tra chất lượng trong năm học 2017 - 2018, tôi thấy kỹ năng cơ bản khi học sinh dùng từ, đặt câu, dựng đoạn văn là tương đối yếu. Vì thế, kết quả kiểm tra học kỳ I thấp, số học sinh khá giỏi ít. *Khi chưa áp dụng đề tài: Năm học 2017 - 2018 Sĩ số Kết quả kiểm tra Lớp Giỏi Khá TB Yếu TB trở lên SL % SL % SL % SL % SL % SL 7A1 35 8 22.9 8 22.9 15 42.8 4 11.4 31 88.6 Trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy trên lớp, tôi đã thực hiện các phương pháp đặc trưng của phân môn Tiếng việt. Đó là những phương pháp sau: a. Phương pháp phân tích ngôn ngữ: - Đây là phương pháp bắt đầu từ một ngữ liệu “tức là các căn cứ ngôn ngữ, để tách ra các hiện tượng ngôn ngữ và từ đó giúp các em phân tích khái quát và kết luận”. Ví dụ: khi dạy kiến thức về phép liệt kê. Giáo viên cung cấp cho học sinh đoạn văn mẫu có chứa các bộ phận có kết cấu tương tự nhau . Sau đó giúp học sinh phân tích về kết cấu và ý nghĩa cách sắp xếp của các bộ phận
- đồ vật đưa ra : Bát yến, đường phèn, tráp đồi mồi, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc . + Về cấu tạo: các bộ phận liệt kê có kết cấu tương tự nhau. + Về ý nghĩa: cùng nói về các đồ vật được bày biện chung quanh quan phủ: Đây là những đồ vật xa sỉ, đắt tiền. Từ đó học sinh kết luận về phép liệt kê: được thể hiện qua việc sắp xếp nối tiếp hàng loạt các từ hay cụm từ cùng loại ( giống nhau về cấu tạo và ý nghĩa ) để diến tả đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm. - Phương pháp này được giảng dạy ở nhiều tiết học. Đó là phương pháp đặc trưng, tiêu biểu nhất giúp học sinh tự khám phá ra kiến thức mới và hình thành khái niệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên. b. Phương pháp dạy theo mẫu: - Dạy học the phương pháp này, giáo viên cung cấp cho học sinh một mẫu về câu hoặc từ, đoạn văn... sau đó kết hợp với phương pháp phân tích ngôn ngữ để học sinh hiểu mẫu câu. Từ đó học sinh bắt chước, sáng tạo theo mẫu câu đưa ra. Ví dụ: khi dạy bài rút gọn câu. Giáo viên có thể đưa ra một đoạn văn đối thoại trong đó có sử dụng một số câu rút gọn. Sau đó yêu cầu học sinh sáng tạo xây dựng một đoạn văn khác tương tự của mình và từ chối đoạn văn của người khác. Chẳng hạn: Nam: Bao giờ cậu đi Hà Nội? Anh: Ngày mai. Học sinh đặt câu tương tự: Mẹ: Hôm qua, con làm xong bài tập toán về nhà chưa? Con: Dạ, xong rồi. Như vậy học sinh biết đặt câu theo mẫu và thậm chí các em còn biết không nên sử dụng câu rút gọn với người lớn tuổi; nếu sử dụng thì phải có lời thưa, gửi. Đây là những điều tối thiểu khi sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. c. Phương pháp dạy Tiếng Việt trên quan điểm giao tiếp. - Trước hết chúng ta cần hiểu: Thế nào là quan điểm giao tiếp?. Quan điểm giao tiếp là quan điểm cho rằng dạy tiếng phải lấy cái đích là sử dụng ngôn ngữ chứ không phải là lý thuyết ngôn ngữ. Dạy tiếng để học sinh sử dụng từ chính xác, tinh tế chứ không phải nắm một mớ lý thuyết ngôn ngữ.
- - Vì phương pháp giảng dạy Tiếng Việt dựa trên lý thuyết - thực hành giao tiếp, cho nên người giáo viên nên cố gắng giảm thiểu phương pháp dạy Tiếng Việt theo lối thuyết giảng: giáo viên trình bày, học sinh lắng nghe, ghi bài một cách thụ động. - Khái niệm giao tiếp hóa giảng dạy có nghĩa là chuyển quá trình trình bày của học sinh thành những cuộc đàm thoại dài ngắn khác nhau giữa giáo viên và học sinh hoặc giữa học sinh và học sinh với nhau. Mặt khác, giao tiếp hóa đòi hỏi khi giảng dạy trong phân môn Tiếng Việt giáo viên phải tạo ra môi trường giao tiếp trong giờ dạy. Đặt nó vào ngữ cảnh, phát hiện ra mục đích, ý định và cách thức trình bày nội dung, hình thức của bài học sao cho đạt mục đích mà người nói, người viết đặt ra. Có nghĩa là giáo viên phải sử dụng phương pháp đàm thoại, sử dụng các câu hỏi gợi mở, vấn đáp, hoặc tổ chức thảo luận nhóm Đặc biệt là phải tạo được tình huống có vấn đề. - Giáo viên phải tạo ra cuộc trao đổi trò chuyện (phương pháp đàm thoại). Người thầy gợi ý, định hướng để học sinh tìm hiểu các ngữ liệu tìm con đường dẫn đến kiến thức mới. - Phương pháp đàm thoại thường được tôi sử dụng ngay từ phần tìm hiểu bài mới để tạo hứng thú cho học sinh từ lúc vào bài mới. VD: Khi dạy tiết câu rút gọn: Tôi vào bài bằng một câu hỏi rất tự nhiên khi vào lớp: - Hôm nay em nào trực nhật? Một HS đứng dậy trả lời: Thưa cô, hôm nay em trực nhật ạ! Tôi hỏi tiếp: Còn ai trực nhật cùng bạn? HS khác: Thưa cô, em ạ! Tôi nói: Cả hai câu trả lời của các em có thể chấp nhận được không? Vì sao? Khi nào cần sử dụng câu có đủ chủ ngữ, vị ngữ? Khi nào không cần thiết? Từ đó sẽ rút ra nội dung cho bài mới hôm nay. Lúc bấy giờ HS mới ồ lên vì thích thú, các em không ngờ rằng câu hỏi đó lại chính là cách để cô giáo dẫn các em vào bài mới. Và thế là các em bị cuốn hút vào bài mới một cách rất tự nhiên, các em sẽ hứng thú học ngay từ ban đầu. c.1 Phương pháp gợi mở:
- - Là phương pháp được sử dụng khi học sinh không thể giải quyết được vấn đề hoặc áp dụng đối với đối tượng học sinh yếu, kém. Phương pháp này nhằm giúp các em tìm ra lời giải cho nội dung bài học muốn truyền thụ. Ta có thể sử dụng phương pháp này suốt cả tiết học. Từ những hướng dẫn, gợi mở của giáo viên, học sinh có thể đi đến kết luận cuối cùng và hình thành ghi nhớ cũng như có khả năng giải quyết một số bài tập “hóc búa”. VD: Khi dạy bài: Câu rút gọn, tôi đặt câu hỏi: ? Khi nào có thể sử dụng câu rút gọn? Khi nào không nên sử dụng? HS chưa thể trả lời ngay, trong truờng hợp đó ta có thể hỏi tiếp bằng cách gợi mở: + Các em hãy chú ý đến môí quan hệ giữa hai người khi giao tiếp (Mẹ - con; ông - cháu ). HS sẽ thấy ngoài việc hoàn cảnh cho phép thì khi sử dụng câu rút gọn cần chú ý đến mối quan hệ trên - dưới Từ đó HS hiểu bài sẽ sâu hơn, có ý thức khi sử dụng câu rút gọn nói riêng và câu nói chung. c.2 Phương pháp sử dụng câu hỏi vấn đáp: - Đây là phương pháp thông dụng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong hầu hết các tiết dạy. Để thực hiện tốt phương pháp này, tôi đã chuẩn bị thật kỹ cho mình một hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó cho mọi đối tượng học sinh. Việc chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi sẽ tạo “bước ngoặt” cho tiết học. Bởi vì, học sinh sẽ hứng thú hơn khi trả lời những câu hỏi thú vị, vừa tầm hiểu đối với kiến thức của các em. Phương pháp này đi kèm cùng phương pháp gợi mở. VD: Khi dạy bài "Câu đặc biệt", sau khi học sinh hiểu thế nào là câu đặc biệt, tôi liền đặt tiếp câu hỏi vấn đáp: Câu đặc biệt khác với câu rút gọn ở điểm nào? Vậy khi nào ta sử dụng câu đặc biệt? - Trên cơ sở HS trả lời những câu hỏi đó, các em đã có thể hiểu sâu hơn về kiến thức câu đặc biệt và câu rút gọn c.3 Phương pháp thảo luận nhóm: - Dạy và học theo phương pháp mới không thể thiếu được phương pháp thảo luận nhóm. Đó là một trong số những phương pháp hay được sử dụng trong hệ thống các phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Trong quá trình học tập, người học khi đứng trước vấn đề, phải tự tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, lập luận, thuyết
- minh làm sáng tỏ vấn đề. Biết hợp tác, chia sẻ là một cách tối ưu để tìm đến kiến thức, để tìm đến chân lý khoa học tốt nhất. - Vai trò của giáo viên trong quá trình hướng dẫn học sinh thảo luận rất quan trọng. Trong khi các em thảo luận, tôi luôn là người tổ chức, tạo điều kiện lắng nghe và hỗ trợ khi cần. Tuy nhiên, chúng ta không nên can thiệp quá sâu vào nội dung thảo luận của các em, cần để cho các em chủ động làm việc, thể hiện quan điểm của mình. Tránh để cho cuộc thảo luận tẻ nhạt, chỉ tập trung vào một số học sinh khá giỏi; cũng tránh để một vài ý kiến của một vài em nào đó lấn át ý kiến của các em khác. - Cuộc thảo luận sôi nổi, bình đẳng giữa mọi thành viên trong lớp sẽ giúp cho mỗi cá nhân tự tin, thoải mái hơn khi học tập, các em được phát biểu ý kiến của mình một cách hiệu quả nhất. Kết quả cuộc thảo luận được khẳng định bằng cách ghi lại (giấy hoặc bảng con), trên cơ sở đó giáo viên sẽ nhận xét và đánh giá. c.4 Muốn giao tiếp tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh, phải tạo được tình huống có vấn đề để học sinh chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng kiến thức: - “Tình huống có vấn đề” là trong đó học sinh (có tư cách làm chủ nhận thức) ở một trạng thái tâm lí đặc biệt. Trong hoạt động học tập các em gặp phải khó khăn, trở ngại về nhận thức, cảm thấy có mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái các em chưa biết, các em có nhu cầu nhận thức là cần phải phát hiện, lĩnh hội những tri thức mới, những hành động mới. - Như vậy giáo viên không chỉ truyền đạt thông tin mà còn phải là người tổ chức và định hướng các em, đưa các em vào tình huống có vấn đề. Từ đó các em: + Phân tích tình huống có vấn đề. + Nêu giả thuyết. + Đưa ra lời giải . + Rút ra kết luận. Ví dụ : Dạy bài: "Câu đặc biệt". Khi ta đưa ra ngữ liệu là một đoạn văn có câu đặc biệt là ta đã tạo một tình huống nảy sinh mâu thuẫn: đó là học sinh đã được học về câu hai thành phần. Các em biết rằng dùng câu phải đủ hai thành phần Chủ ngữ và Vị ngữ. Không được dùng câu thiếu thành phần không rõ chủ ngữ hay vị ngữ. Vậy