Đề thi Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học

doc 19 trang Hải Phong 19/07/2023 1740
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_thi_nang_cao_chat_luong_mon_ngu_van_bang_phuong_phap_su_d.doc

Nội dung text: Đề thi Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học

  1. THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN 1.Tên sáng kiến: Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn học Ngữ văn trong nhà trường. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 20 tháng 9 năm 2015đ ến ngày 15 tháng 2 năm 2016. 4. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thanh Hà Năm sinh: 1980 Nơi thường trú: Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định. Trình độ chuyên môn: Cử nhân cao đẳng. Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THCS Nguyễn Du- Hà Nội. Điện thoại: 5. Đồng tác giả: Không Họ và tên: Năm sinh: Nơi thường trú: Trình độ chuên môn: Chức vụ công tác: Nơi làm việc: Địa chỉ liên hệ: Điện thoại: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 1. Cơ sở lí luận: 1
  2. * Về phía giáo viên Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống . Mỗi phương pháp đều có những mặt ưu và nhược điểm của nó. Vậy để có một phương pháp dạy học tốt nhất là gì? Nhất là việc dạy một tiết Ngữ văn ở bậc THCS thì phải làm sao? Muốn thực hiện tốt điều này người giáo viên cần lựa chọn các phương pháp dạy học trên cơ sở phù hợp với mục đích, trước hết giáo viên cần phải làm rõ mục tiêu bài học, sau đó lựa chọn các hoạt động nhằm đạt mục đích. Đồng thời điều quan trọng là phải tính đến đối tượng học sinh nhằm tạo cho các em có thái độ học tập tích cực hứng thú. Khuyến khích toàn bộ học sinh trong lớp cùng suy nghĩ và qua đó tạo cho học sinh cơ hội thu nhận phản hồi tích cực thể hiện thành công của mình trong học tập. Như vậy thành công của một giờ dạy bao gồm nhiều yếu tố tạo thành. Trong đó yếu tố về phương pháp giảng dạy là quan trọng và quan trọng hơn là sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng của bộ môn.Trong số những phương pháp dạy học đang được sử dụng thì phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, là phương pháp có nhiều ưu thế trong thực hiện các mục tiêu giáo dục mới hiện nay. • Về phía học sinh: Trên thực tế một số học sinh chưa thật mặn mà học môn Ngữ Văn so với các môn học khác, nhiều em còn ngại học, lười suy nghĩ, không tập trung nghe giảng, dẫn đến tâm thế thiếu tích cực, chủ động trong việc học tập môn ngữ văn. Một số em có phụ huynh đi làm xa, hoặc do bận công việc nên ít có điều kiện dành thời gian quan tâm, kèm cặp con em mình học tập; chưa kể có nhiều em ngoài giờ học trên lớp, còn 2
  3. phải phụ giúp gia đình trong việc mưu sinh nên không có nhiều thời gian giành cho việc tự học. Bên cạnh đó, có thể thấy trong bối cảnh những điều kiện đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần ngày càng không ngừng được nâng cao như hiện nay, rất nhiều học sinh đã bị lôi cuốn, sa đà và các loại hình giải trí khác nhau, dẫn tới sao nhãng việc học, nhất là học thêm và tự học ở nhà. Để khắc phục thực trạng bất cập nêu trên, thiết nghĩ cần một hệ giải pháp toàn diện, có hiệu quả trong việc tạo chuyển biến theo hướng nâng cao chất lượng giảng dạy đối với đội ngũ giáo viên, cũng như thái độ tích cực của học sinh trong việc học tập môn ngữ văn. Trong đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng như vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại để nhằm không chỉ trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cho học sinh, mà còn tạo ra sức lôi cuốn, khơi gợi ở các em niềm yêu thích với môn học đặc biệt quan trọng này là một trong những trọng tâm cần được ưu tiên. Chính vì lẽ đó, việc vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học môn ngữ văn – với những hiệu quả bước đầu mà phương pháp này đem lại – đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc tìm hiểu, vận dụng bản đồ tư duy của nhiều giáo viên dường như mới chỉ đang dừng ở mức độ “tự phát”, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận cũng như “năng lực” cá nhân của mỗi người. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về phương pháp này, từ đó đi đến xây dựng “mô thức ứng dụng” có tính chất phương pháp luận nhằm hướng tới vận dụng phương pháp một cách bài bản, phổ biến và tối ưu thiết nghĩ là hết sức cần thiết. II. THỰC TRẠNG: 1. Thực trạng của việc học văn hiên nay: Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi 3
  4. nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh , cụ thể là: - Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại. - Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta. Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất. 2. Nguyên nhân: a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau : 4
  5. - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao . - Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh . - Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. b. Đối với học sinh: - Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn - Địa phương xã Thọ Nghiệp thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học. - Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập. III. CÁC GIẢI PHÁP A. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD: - BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng. - Dạy học bằng Bản đồ tư duy - một giải pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục. 1. BĐTD tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng: 5
  6. a. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán. b. Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một cách rất rõ ràng. c. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ BĐTD cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt chẽ về những gì được học. 2. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài. B. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn: 1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học: - Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cáhc dễ dàng. - Ví dụ 1: Với văn bản: Thầy bói xem voi (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung bài học. 6
  7. Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức: + Bố cục của văn bản: học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính ( Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả.) + Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ) 2. Hướng dẫn học sinh phương pháp thiết kế, xây dựng bản đồ tư duy Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Sử dụng bản đồ tư duy là sử dụng những hình khối, đường nét, màu sắc để phát triển định hướng và ghi nhớ những khối lượng thông tin có liên quan. Do đó khi xây dựng bản đồ tư duy, cần yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Vẽ ý tưởng trung tâm Ý tưởng trung tâm là vấn đề chính mà chúng ta đang quan tâm tới. Để biểu diễn ý tưởng trung tâm, có thể vẽ một hình ảnh hoặc viết chữ (ngắn gọn) liên quan tới chủ đề được đề cập. Tuy nhiên, thông thường việc sử dụng hình ảnh có hiệu quả hơn, vì nó mang tính biểu tượng và có ưu thế vượt trội trong việc gợi mở các liên tưởng so với dùng từ ngữ. Bước 2: Vẽ các nhánh chính - Các nhánh chính là các ý tưởng lớn được phát triển trên nền tảng là chủ đề trung tâm. Nó có thể là những kiến thức mà chúng ta đã được học và cần ghi nhớ, hoặc có thể là các dạng bài tập và phương pháp làm bài tương ứng của dạng bài văn đó mà ta xét có liên quan tới chủ đề chính. Các nhánh chính có thể được vẽ theo nhiều cách khác nhau (tùy thuộc ý tưởng của mỗi cá nhân hay của nhóm) sao cho chúng mang tính gợi mở cao và hiệu quả nhất trong việc ghi nhớ; nói cách khác, việc vẽ các nhánh chính nên được để học sinh thoải mái sáng tạo một cách tự nhiên. - Trên các nhánh chính này là các từ khóa ngắn gọn và mang tính chất gợi ý. Khuyến khích các em vẽ thêm hình ảnh gì đó mang tính minh họa. 7
  8. Bước 3: Vẽ các nhánh thứ cấp - Đây là các nhánh được vẽ từ nhánh chính. Nó bổ sung ý cho nhánh chính. Chúng ta có thể vẽ thêm nhiều nhánh thứ cấp, tuy nhiên cần quan tâm tới không gian mà chúng ta được cung cấp. - Tương tự như nhánh chính, các chữ trên nhánh thứ cấp cũng là các từ khóa mang tính gợi nhớ, và có thể bổ sung hình ảnh để thêm phần sinh động. Nguyên lý quan trọng trong dạy học bằng bản đồ tư duy là nó dựa trên sự liên tưởng “ý này gợi mở ý kia” tạo ra không gian vô tận trong học tập và sáng tạo của học sinh. Có nhiều cách khác để vẽ bản đồ tư duy; ngoài ra, việc chia nhỏ các bước tùy vào những tình huống hay yêu cầu của từng vấn đề mà ta cần mô tả. Sơ đồ minh hoạ 8
  9. Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6 - Ví dụ 2: Khi học bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ giáo viên cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( nhánh con cấp 2, cấp 3 ), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. Sơ đồ minh hoạ 9
  10. Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6 - Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần : Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. - Ví dụ 1: Khi dạy phần từ loại tiếng Việt, giáo viên tổ chức cho học sinh vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có một tập BĐTD về các từ loại tiếng Việt: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, quan hẹ tự, trợ từ, thán từ . Lên đến lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có. Sau khi có một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD sẽ cho một học sinh khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh khác và ghi thêm các chú thích rồi thảo luận chung trước lớp để hoàn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em. Sơ đồ minh hoạ 10
  11. Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9 - Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du: Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho HS bằng BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm: a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác b. Tác phẩm: + Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm) + Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam + Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều. + Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật. 11
  12. c) Sử dụng bản đồ tư duy để củng cố, hệ thống kiến thức Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ bằng cách vẽ bản đồ tư duy trên giấy A4 hoặc trên bảng. Sau đó giáo viên yêu cầu một vài em lên bảng thuyết minh lại theo bản đồ tư duy của mình những kiến thức đã tiếp thu được và cho những học sinh khác nhận xét, rút kinh nghiệm. Thực hiện bản đồ tư duy như vậy sẽ giúp cho giáo viên nắm được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh, và học sinh cũng nắm vững kiến thức và nhớ lâu hơn. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ 1: Ở bài “Phương pháp tả cảnh” (Ngữ văn 6), sau khi dạy xong kiến thức lí thuyết, giáo viên chia học sinh thành các nhóm, tái hiện lại nội dung bài học thông qua vẽ bản đồ tư duy; sau đó đại diện các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác được yêu cầu nhận xét, bổ sung. Bằng cách này, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp và củng cố những kiến thức về phương pháp tả cảnh. Yêu cầu của tiết học này là tìm hiểu kiến thức lí thuyết về phương pháp tả cảnh, rồi từ đó hướng dẫn học sinh làm các bài tập. Bản đồ tư duy một mặt sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về lí thuyết phương pháp làm bài văn tả cảnh; mặt khác còn giúp củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành, từ đó vận dụng vào làm các bài tập. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức. 12
  13. Bản đồ tư duy bài “Phương pháp tả cảnh”- Ngữ văn 6 Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Ngữ văn 9), giáo viên định hướng cho học sinh khai thác kiến thức của bài học thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho các em bằng bản đồ tư duy. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm: a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác b. Tác phẩm: + Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm gồm cả thơ và truyện) + Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên giúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam, + Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ ) 13
  14. + Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo); giá trị nghệ thuật của truyện. Bản đồ tư duy bài “Truyện Kiều”- Ngữ văn 9 2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic. - Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. - Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập. 14
  15. 3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn * BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. * BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực: - Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. - Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím, ), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. IV. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐEM LẠI: Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. 15
  16. Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt. IV. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐEM LẠI: 4.1 - Hiệu quả kinh tế: - BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án. Nó cho người học một cái nhìn tổng thể, cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào đó đang một dự án kinh doanh thì đừng quên sử dụng BĐTD khi làm việc. - Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công. - Khi ta bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều việc một lúc. Có khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu. 4.2 - Hiệu quả về mặt xã hội: 16
  17. a, Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. b, Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. c, Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt. d, Thực tế kết quả kiểm tra hết học kỳ I năm học 2011 - 2012 cho thấy môn Ngữ văn khối 8 nói riêng và chất lượng môn văn của nhà trường nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là: - Môn Ngữ văn 6 đạt 80 % xếp thứ 8/21 đơn vị - Môn Ngữ văn 7 đạt 89% xếp thứ 5/21 đơn vị trường. - Môn Ngữ văn 8 đạt 95 % xếp thứ 4/ 21 đơn vị trường. 17
  18. - Môn Ngữ văn 9 đạt 82 % xếp thứ 7/21 đơn vị trường. Riêng phòng chấm chéo huyện đạt 86 % xếp thư 4/21 đơn vị trường. Đó là những kết quả rất khả thi nhờ áp dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD trong dạy học Ngữ văn. V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ: Tôi hy vọng rằng, trong những năm học tới phòng giáo dục đào tạo sẽ tiếp tục tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn nữa để chúng tôi có được những phương pháp dạy học hay, hiệu quả. Xin trân trọng cảm ơn! Thọ Nghiệp ngày 15 tháng 2 năm 2016 Người viết sáng kiến: Nguyễn Thanh Hà CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (xác nhận, đánh giá, xếp loại) (ký tên, đóng dấu) PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO - TẠO (xác nhận, đánh giá, xếp loại) 18
  19. Tài liệu tham khảo 1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh học tập môn toán- Tạp chí Giáo dục, kì 2- tháng 9/2009. 2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm 2009. 3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động – Xã hội. 4. Stella Cottrell (2003), The study skills handbook (2nd edition), PalGrave Macmillian. 5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan). 6. Tài liệu tập huấn chuyên môm do phòng giáo dục đào tạo tổ chức. 19