Bài thuyết trình môn Văn học dân gian - Chương 5: Kịch văn học
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài thuyết trình môn Văn học dân gian - Chương 5: Kịch văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_thuyet_trinh_mon_van_hoc_dan_gian_chuong_5_kich_van_hoc.pptx
Nội dung text: Bài thuyết trình môn Văn học dân gian - Chương 5: Kịch văn học
- CHƯƠNG 5 KỊCH VĂN HỌC Nhóm 5
- Mục lục I. GIỚI THIỆU VỀ KỊCH 1. Khái niệm 2. Phân biệt kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu (kịch) II. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KỊCH 1. Những khuynh hướng chính của văn học kịch đề tài lịch sử 2. Những vấn đề lý luận của văn học kịch đề tài lịch sử III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KỊCH 1. Xung đột kịch 2. Hành động kịch 3. Nhân vật kịch 4. Ngôn ngữ kịch
- I. GIỚI THIỆU VỀ KỊCH 1. Khái niệm: Bắt nguồn từ một cụm ngữ của tiếng Hy Lạp có nghĩa là hành động, kịch là một bộ môn nghệ thuật được biểu diễn trên sân khấu và có sự kết hợp giữa 2 yếu tố bi và hài kịch. Ngoài ra thì kịch cũng có thể được coi là một thể loại thơ ca. Nội dung của kịch được lấy cảm hứng từ chính những vấn đề trong cuộc sống, các xung đột trong các mối quan hệ của xã hội đã được khái quát, xây dựng và trình bày thành một cốt truyện kịch chặt chẽ.
- I. GIỚI THIỆU VỀ KỊCH 1. Khái niệm: Tùy vào từng bố cục và các xây dựng nội dung kịch của tác giả mà kịch sẽ được chia thành nhiều thể loại kịch khác nhau, trong đó bao gồm: hài kịch, bi kịch, bi hài kịch, chính kịch Và cũng tùy vào các yếu tố nội dung và bố cục mà có thể phân kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện đại tùy thuộc vào thời gian biểu diễn mà vở kịch đó sẽ phân loại thành kịch ngắn hay kịch dài.
- 2. Phân biệt kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu (kịch): - Kịch bản văn học là tác phẩm văn học, có đầy đủ đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ. Còn sân khấu thuộc nghệ thuật biểu diễn. - Kịch bản văn học viết ra là để biểu diễn nên cũng đậm chất sân khấu. Vì thế khi xem xét kịch bản văn học một mặt phải xem nó như 1 tác phẩm nghệ thuật, mặt khác không thể tách rời nó khỏi nghệ thuật sân khấu mới thấy hết được những đặc trưng của nó.
- II. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KỊCH “Chúng ta phải tin ở các nhà sử học trong việc miêu tả sự kiện, và các nhà sử học phải tin vào sự hiểu biết của chúng ta về trái tim con người.” (Salygin). Công chúng dù đã thuộc làu lịch sử – nghĩa là đã biết thông tin – vẫn say mê tìm đến với văn học đề tài lịch sử để có thể hiểu thêm về lịch sử. Lịch sử chỉ xưng tụng: “Bà Trưng quê ở Châu Phong Ghét loài tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân” (Đại Nam quốc sử diễn ca)
- còn văn học lại đớn đau thổn thức: “Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi thân thiếp bơ vơ quá Canh vắng, đêm trường bóng lẻ loi” (Ngân Giang) Lịch sử chỉ chú trọng bài học cảnh giác nỏ thần Thục Phán, còn văn học lại thương cảm ngậm ngùi: “Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu” (Tố Hữu)
- Kịch với hai đặc trưng cơ bản là tính xung đột và tính hành động dường như có thể “dựng” lịch sử sống lại, đem đến cho người đọc, người xem một hứng thú đặc biệt. Văn học kịch Việt Nam đã từng có những thành tựu rất sớm về đề tài lịch sử. Trải qua gần một thế kỷ hình thành và phát triển của thể loại, lịch sử tiếp tục được khám phá từ nhiều góc độ đa dạng, với những cảm hứng phong phú dồi dào hơn. Và chính quá trình khai thác đề tài lịch sử lâu dài đó đã đặt ra cho văn học kịch những vấn đề lý luận quan trọng về mối quan hệ giữa giữa tính chân thật lịch sử và tính hư cấu nghệ thuật, giữa nội dung lịch sử và tính chất hiện đại.
- 1. Những khuynh hướng chính của văn học kịch đề tài lịch sử: * Xu hướng tái hiện lịch sử: • Dĩ nhiên tất cả các tác phẩm đề tài lịch sử đều nhằm mục tiêu tái hiện lịch sử. Nhưng vấn đề được nhấn mạnh ở đây là một xu hướng tái hiện lịch sử một cách giản dị, chân phương như nó vốn có. Những kịch bản loại này in đậm nét cảm hứng sử thi, có nội dung rất gần với chính sử. • Văn học kịch Việt Nam chính thức khai sinh từ năm 1921. • Từ thập niên 1930, với phong trào phục cổ rầm rộ trong xã hội, văn học kịch đã đạt được những giá trị mới thông qua những câu chuyện cũ trong kho tàng lịch sử. • Kịch lịch sử giai đoạn 1930 -1945 gồm hai mảng khác biệt: một mảng viết về lịch sử Trung Quốc và một mảng khác viết về lịch sử dân tộc.
- Có hai chủ đề lớn được khai thác là chuyện tình của các bậc đế vương với những mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành (Dương Quý Phi – Thế Lữ và Vi Huyền Đắc, Tiếng địch sông Ô – Huy Thông) và câu chuyện của những đại thích khách “kẻ sĩ chết vì người tri kỷ” (Kinh Kha – Huy Thông, Yêu Ly – Lưu Quang Thuận). Cốt truyện kịch người xem đã nằm lòng, đã biết trước từ xung đột đến hành động. Cái còn lại đầy sức thu hút là dư ba vang vọng của những vần thơ hào hùng: “Ta thác đi chưa thoả chí anh hùng Nhưng thác dưới một bàn tay vũ dũng” (Yêu Ly) “Ôi những trận mạc khiến trời long đất lở Những chiến thắng tưng bừng, những vinh quang rực rỡ Ôi những võ công oanh liệt chốn sa trường Những buổi tung hoành lăn lộn trong rừng thương!” (Tiếng địch sông Ô)
- Kịch thơ Huyền Trân công chúa của Huy Thông chỉ có một cảnh, còn ngắn hơn cả một truyện ngắn. Câu chuyện chỉ diễn ra trong khoảnh khắc chia tay cố quốc của nàng công chúa nhà Trần, nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ kịch tính. Bởi vì trong chốc lát thôi nhân vật chính đã có sự chuyển biến trong tâm lý và hành động từ chỗ khăng khăng từ chối xuống thuyền hoa đến chỗ bằng lòng về Chiêm quốc. Cũng chỉ trong phút giây ngắn ngủi đó, Trần Khắc Chung đã trải qua những dằn vặt dữ dội giữa tình riêng và nghĩa lớn khiến chàng phải nửa van xin nửa thơ than cùng người tri kỷ: “Đi đi! Công chúa hỡi! Em Huyền Trân! Em đi đi cho anh vẹn chữ trung thần!”
- Sau Cách mạng tháng Tám, khái niệm đề tài lịch sử được mở rộng hơn, không chỉ là quá khứ hiển hách của cha ông mà còn là hiện tại hào hùng của công cuộc đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên, những thành tựu về kịch nói đề tài lịch sử thì thu hẹp lại Kịch sau Cách mạng tháng Tám ưu tiên cho đề tài hiện đại hơn đề tài lịch sử. Kịch bản được xem là đặt cột mốc đánh dấu điểm khởi đầu của kịch nói cách mạng lại thuộc về đề tài lịch sử: Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng Tác phẩm: Đề Thám (Lưu Quang Thuận và Thế Lữ), Tiếng trống Hà Hồi (Hoàng Như Mai), Nguyễn Huệ (Thanh Tịnh), Quang Trung (Trúc Đường).
- • Có một mảng đề tài lịch sử không thể không đề cập đến là đề tài Hồ Chủ tịch. Những kịch bản viết về Bác đều ra đời sau năm 1975, khi đất nước đã hoà • Người công dân số một là kịch bản hoành tráng nhất vì nó tái hiện lại cả một chặng đường dài hơn ba mươi năm trong cuộc đời hoạt động của Bác từ khi ra đi tìm đường cứu nước ở bến Nhà Rồng năm 1911 cho đến khi triệu tập Quốc dân đại hội ở Tân Trào năm 1945n toàn thống nhất. • Với Đêm trắng – như đã thấy ở nhan đề – là câu chuyện của một đêm Bác thức trắng trước khi ký án tử hình một cán bộ cốt cán tên Hoàng Trọng Vinh – một kiểu “nhân danh công lý”. Còn Lịch sử và nhân chứng của Hoài Giao – được xem là kịch bản viết về Bác Hồ thành công nhất - khắc hoạ chân dung Bác trong những giờ phút quyết định mối quan hệ Việt – Pháp năm 1946. Qua những suy tư, những cuộc gặp gỡ, vẻ đẹp trong tâm hồn, trong nhân cách của “người công dân số một” được soi sáng một cách khá thuyết phục.
- * Xu hướng “con người hoá lịch sử” • Những kịch bản theo khuynh hướng này rất đậm chất văn chương vì lịch sử được khai thác thông qua số phận con người • So với các thể loại văn học khác, xu hướng con người hoá lịch sử xuất hiện khá sớm trong văn học kịch với Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng
- • Mãi đến cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu, văn học Việt Nam đã hướng đến “cảm hứng phát hiện những hạt ngọc ẩn giấu bên trong tâm hồn con người”. • Kịch nói cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Nếu Lưu Quang Vũ “làm mưa làm gió” trong phạm vi đề tài hiện đại thì kịch lịch sử lại in đậm dấu ấn tên tuổi Nguyễn Đình Thi với bộ đôi tác phẩm Nguyễn Trãi ở Đông Quan và Rừng trúc.
- • Thật ra bên cạnh hai xu hướng chính trên, còn có thể đề cập đến một xu hướng thể hiện lịch sử thứ ba trong văn học kịch tạm gọi là xu hướng “viết lại” lịch sử. Trong những kịch bản này chỉ có tên người, hoặc nhiều lắm là tên đất, là lịch sử; còn đường dây chính của kịch bản là chuyện tưởng tượng. • Xu hướng này thích hợp với hài kịch để tạo những tương phản gây cười, nhưng nếu tác giả không thận trọng thì rất dễ gây phản cảm cho người đọc,người xem. Và những kịch bản này thường không nhiều chất văn học lắm.
- 2. Những vấn đề lý luận của văn học kịch đề tài lịch sử * Tính chân thật lịch sử và tính hư cấu nghệ thuật • Tác phẩm nghệ thuật đương nhiên phải có hư cấu, nhưng đề tài lịch sử lại đòi hỏi sự chân thật nhất định vì mỗi kịch bản có bối cảnh là một thời kỳ lịch sử cụ thể. • Nguyên tắc chung là nếu lịch sử ghi chép cái đã xảy ra thì văn học lại phản ánh cái có thể xảy ra. . Đó là những cái tuy không có thật nhưng hợp tình hợp lý trong hoàn cảnh đó, trong thời kỳ đó
- • “Sân khấu không đòi hỏi sự chính xác lịch sử, nhưng đòi hỏi tính chân thật lịch sử. Giữa sự chính xác lịch sử và hư cấu nghệ thuật có thể có sự mâu thuẫn, nhưng giữa tính chân thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật phải có sự thống nhất” • Hay dùng một hình tượng như giáo sư Trần Văn Giàu: “Óc tưởng tượng đó tựa như một chiếc diều trước gió chướng sau Nguyên đán, cho dù có bay lên chín tầng mây, vẫn phải cần một chiếc dây cuộn chắc vào gốc tre đồng.” • Như Aristote đã nói từ hơn hai nghìn năm trước: “Nhiệm vụ của nhà thơ không phải là kể lại những sự việc có thật, mà là kể lại những sự việc có thể xảy ra dựa trên tính chân thật và tính tất yếu.”
- • Hư cấu trong một vở kịch lịch sử thể hiện trên nhiều bình diện khác nhau. Thứ nhất là hư cấu sự kiện. Chúng ta chỉ bàn đến những sự kiện quan trọng để phát triển cốt truyện kịch, không kể đến những cuộc gặp gỡ vô tình, những hành động vụn vặt. • Loại hư cấu dễ thấy hơn là hư cấu nhân vật. Đơn giản vì đó là một mảng đời tư chính sử còn bỏ nhiều chỗ trống, thoả sức cho các nhà viết kịch tung hoành • Một dạng hư cấu hấp dẫn nhất kể cả đối với người viết lẫn người đọc chính là hư cấu tâm hồn nhân vật. Đây luôn là khoảng trống, là lỗ hổng của lịch sử mà các nhà văn tự đặt ra cho mình sứ mệnh phải lắp đầy. Những tâm tư, nguyện vọng, mơ ước cá nhân thì không lịch sử nào chép lại tỉ mỉ.
- * Nội dung lịch sử và tính chất hiện đại • Tính hiện đại của một kịch bản văn học, cũng như của một tác phẩm văn học nói chung, không nằm ở đề tài, ở phạm vi cuộc sống mà nó phản ánh. Vấn đề là ở chỗ nhìn nhận, lý giải đề tài đó như thế nào. Cho nên có những tác phẩm nói chuyện quá khứ mà vẫn mang tính hiện đại vì vấn đề mà nó đặt ra vẫn là một “câu hỏi lớn không lời giải đáp”. • Tính hiện đại thể hiện trên hai bình diện: hoặc nhìn nhận lý giải câu chuyện trong quá khứ qua lăng kính của thời hiện đại, hoặc khám phá ra những vấn đề mang tính vĩnh cửu của đời sống con người trong những chuyện xưa tích cũ. • Những tác phẩm thành công nhất đi thể hiện bình diện thứ hai của tính hiện đại là Vũ Như Tô và Rừng trúc
- III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KỊCH 1. Xung đột kịch • Kịch bắt đầu từ xung đột. "Xung đột là cơ sở của kịch" (Pha đê ép). Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. • Do tính chất sân khấu qui định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch.
- • Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. • Xung đột kịch do tính chất sân khấu qui định đồng thời xung đột làm cho kịch có tính sân khấu • Có 2 loại xung đột: Xung đột bên ngoài (NV này với NV khác, NV với gia đình, dòng họ ), xung đột bên trong (xung đột trong nội tâm NV).
- Phân tích xung đột kịch trong “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. • Xung đột từ bên trong con người qua cuộc đối thoại có tính giả tưởng giữa linh hồn và xác thịt nhằm hướng tới một vấn đề mang tính chiều sâu triết học * Những ràng buộc mang tính tương khắc giữa thể xác và linh hồn - Xung đột giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt (cảnh 7). Đây là cuộc đàm thoại một bên là phần hồn thanh cao, một bên là phần xác dung tục. => Cuộc tranh cãi giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là bi kịch thứ nhất của Trương Ba vì xác đã thắng. Tác giả cảnh báo, khi con người phải sống trong cái tầm thưòng, dung tục thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc bởi cái xấu, cái đẹp sẽ bị lấn át, tàn phá.
- *Xung đột giữa hồn Trương Ba với gia đình + Trương Ba càng dằn vặt hơn khi ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra những điều tệ hại, mặc dù ông không hề muốn. + Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ. + Con dâu thấu hiểu hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng nên chỉ biết thông cảm, xót xa. + Cháu gái thì phản ứng quyết liệt không nhận Trương Ba là ông => Tất cả mọi người thân yêu đã xa dần ông Trương Ba vì hồn ông bị mờ khuất, chỉ còn cái xác hàng thịt thô lỗ hiện hữu trong nhà, gây biết bao phiền toái, chướng tai gai mắt. Trương Ba bị đẩy vào bi kịch đau đớn thứ hai khiến ông phải thốt lên: “Mày đã thắng rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ!”.
- * Xung đột giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, Trương Ba tự đấu tranh bản thân để thoát ra khỏi nghịch cảnh + Gặp Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cuộc sống hồn một nơi, xác một nẻo, khẳng định muốn được sống độc lập một mình. + Lúc đầu Đế Thích không hiểu, sau hiểu ra, Đế Thích khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn: “Dưới đất, trên trời đều thế cả”. + Trương Ba không chấp nhận, ông thẳng thắn chỉ trích, vạch ra sai lầm của Đế Thích + Tiếp tục Đế Thích “sửa sai” của mình bằng cách là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị (tệ hại ít hơn), nhưng Trương Ba vẫn kiên quyết từ chối bởi điều đó vẫn là cuộc sống giả tạo, nực cười => Màn kết với chất thơ sâu lắng, tác giả đã đem lại âm hưởng lạc quan cho người đọc, đồng thời truyền đi bức thông điệp về sự chiến thắng của cái Đẹp, cái Thiện và cuộc sống đích thực.
- 2. Hành động kịch - Nhìn vào một vở kịch, chúng ta tưởng chừng như kịch chỉ khác truyện ở chỗ viết bằng đối thoại mà thôi. Nhưng nhiều tác phẩm viết bằng đối thoại mà vẫn không phải là kịch, tính kịch không phải chỉ ở chỗ đối thoại mà là ở chỗ hành động của những con người đối đáp với nhau. Chỉ những câu đối thoại có chứa đựng một hành động mới làm được thành kịch. Kịch là hành động. - Hành động là hoạt động có ý thức của con người nhằm thay đổi môi trường chung quanh. Thuộc tính chủ yếu của hành động là có mục đích. Aristtote gọi kịch là sự bắt chước hành động, kịch được xây dựng bằng hành động cũng như âm thanh đối với âm nhạc, màu sắc đối với hội họa, hành động là ngôn ngữ của kịch, là phương tiện thể hiện chủ yếu của kịch.
- - Chính vì dùng hành động để thể hiện nên kịch phản ánh cuộc sống cụ thể và trực tiếp. Người xem kịch thấy cuộc sống hiện ngay trước mắt, nghe thấy bên tai. Kịch là bức tranh vừa có hành động vừa có âm thanh. Đây chính là ưu thế của kịch so với các thể loại khác. - Mỗi vở kịch phải là tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn thể hiện một tư tưởng nhất định, muốn thế nó phải xoay quanh một hành động lớn, phục vụ cho tư tưởng của vở kịch, các hành động khác phải xoay quanh và phục vụ cho hành động chính. Người viết phải biết chọn lọc những hành động nào phục vụ cho chủ đề tưởng của vở kịch chứ không được lan man làm loãng vở kịch.
- - Mỗi nhân vật trong vở kịch đều có một nhiệm vụ nhất định đối với toàn bộ vở kịch, người ta gọi đó là nhiệm vụ tối cao của nhân vật. Anh ta hành động nhằm vào mục tiêu đó, ta gọi đó là hành động xuyên của nhân vật. Hành động xuyên đó nhằm phục vụ cho nhiệm vụ tối cao của nhân vật. - Ở mỗi hoàn cảnh cụ thể, anh ta lại có một mục tiêu cụ thể và có một hành động cụ thể để đạt mục tiêu đó, ta gọi là nhiệm vụ từng lúc. Tuy nhiên nhiệm vụ từng lúc đều phải phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho nhiệm vụ tối cao, và hành động từng lúc cũng phải phù hợp với hành động xuyên của nhân vật. - Hành động từng lúc của nhân vật kết thành một chuỗi hành động ta gọi đó là đường dây hành động, vẽ nên tính cách của nhân vật. Đường dây hành động thường là tăng dần từ chỗ nhẹ nhàng tới chỗ kiên quyết, từ chỗ đơn giản đến chỗ phức tạp.
- * Ví dụ trong vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt” Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt thể hiện sự dằn vặt, giằng xé đau đớn của hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: "Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rỗi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!"
- - Hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn Và xác bất đầu. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của hồn Trương Ba: "cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chì là thân xác " Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi thường: "mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói. Mày không có tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm u đui mù Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt."
- - Cả gia đình Trương Ba cũng bị cuốn vào bi kịch bởi những điều lộn xộn, tréo ngoe do hồn một đằng xác một nẻo gây ra. - Lời nói của chị con dâu chứa đựng sự thực phũ phàng có tác dụng thức tỉnh hồn Trương Ba, thúc đẩy ông tới một sự lựa chọn một hành động đau xót nhưng quyết liệt. Đoạn độc thoại thể hiện sự dằn vặt khổ sở của hồn Trương Ba khi phải đối điện với chính mình, khi tự đặt ra và trả lời những câu hỏi của lương tâm: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?, Chẳng còn cách nào khác. Mày nói như thế hả? Nhưng có thật ta không còn cách nào khác? Không cần cái đời sống do mày mang đến. Không cần!"
- Để củng cố thêm quyết tâm, Trương Ba thắp nhang cầu khẩn sự giúp đỡ của vị tiên cờ Đế Thích và thổ lộ nỗi khổ tâm của mình. Bàng hoàng nhưng Trương Ba vẫn như đang đắm mình trong dòng suy nghĩ, dằn vặt, thoáng chút trách móc: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết." Muốn thoát khỏi tình huống khó xử và khó chịu như thế này, Trương Ba chì còn một cách là chấp nhận cái chết vĩnh viễn.
- Hành động kịch là một vấn đề hết sức rộng lớn vì kịch tức là bắt chước hành động. Nhiệm vụ của người diễn viên là hành động trên sân khấu tùy theo nhân vật mà mình phụ trách. nhiệm vụ của người đạo diễn là tổ chức hành động trên sân khấu. Còn người viết kịch là người cung cấp chất liệu hành động cho đạo diễn và diễn viên, thông qua đó vẻ nên những tính cách và phát triển một quan điểm, một tư tưởng nhất định.
- 3. Nhân vật kịch Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn về cảnh vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vậy, có thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc đều được bộc lộ thông qua nhân vật. Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như trong các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt.
- Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
- *Ví dụ trong tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Trương Ba chết do sự tắc trách của Nam Tào nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thấy đau khổ đến cực độ và thấy không thể chịu dựng được hơn nữa. Xác hàng thịt muốn khẳng định, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình:
- Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thể giới này qua những giác quan của tôi Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định sự thanh sạch của tâm hồn khác xa với những thú tục thấp hèn khác: Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc [ ] Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt; Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn
- Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ cương quyết, từ chối chấp nhận cảnh sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Trương Ba nhận thức rất rõ về cuộc sống hiện tại của chính mình: Ông tưởng tôi ham sống lắm hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là chết. Mà không phải chỉ là một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn khiếp là lợi lộc.
- Ở phần cuối của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, người đọc nhận thấy hành động của nhân vật Trương Ba hết sức phù hợp với hoàn cảnh trớ trêu mà ông ta đang lâm vào một cách bi kịch. Lời nói của Trương Ba vói những độc thoại nội tâm rất phù hợp với tính cách của nhân vật khi đã bị nhiễm những thói hư tật xấu sau một thời gian trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, đồng thời nó góp phần thúc đẩy bước phát triển của xung đột kịch đến chỗ cần giải quyết.
- 4. Ngôn ngữ kịch - Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện và vì thế, kịch văn học không có ngôn ngữ người kể chuyện. Cho nên về cơ bản, kịch văn học chỉ có một thành phần lời nói. Đó là lời các nhân vật được truyền đạt bởi những diễn viên đống vai các nhân vật ấy. Lời của các nhân vật gọi là “thoại”, gồm ba dạng: Đối thoại, độc thoại và bàng thoại. + Đối thoại: Là lời các nhân vật nói với nhau. Vì văn bản kịch chủ yếu là sự liên kết một chuỗi các đối thoại nên đây là thành phần lời văn quan trọng nhất, giữ vị trí then chốt tạo nên cấu trúc của kịch bản văn học.
- + Độc thoại: Là lời nhân vật nói với chính mình. Trong kịch, lời độc thoại mang tính ước lệ bởi lời độc thoại là lời nội tâm. Trong kịch lời độc thoại thường rất mạch lạc. + Bàng thoại: Là lời nhân vật nói riêng với khán giả. Đang đối thoại với nhau bỗng một nhân vật tiến lên phía trước hướng về khán giả nói vài câu để giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng hay điều bí mật nào đó. Và nói như thế, nó mặc nhiên xem như những nhân vật khác không nghe thấy lời nói đó. Cho nên lời bàng thoại thể hiện rõ nhất tính chất trò diễn đầy ước lệ của ngôn ngữ kịch.
- - Đặc điểm của lời thoại kịch: Ngoài tính hình tượng, tính chính xác, tính hàm súc, tính hệ thống như ngôn ngữ văn học nói chung, lời thoại của kịch còn có đặc điểm – thoại cũng là hành động đầy kịch tính. Trong kịch không chỉ riêng lời đối thoại, mà ngay cả lời độc thoại cũng có những đặc điểm của hành động. Chẳng hạn sau những đoạn độc thoại trong các vở kịch nổi tiếng như: Vua Ơdip, Vua Lia, Hamlet, Lơ Xit, bộ mặt tâm lí của nhân vật lại có sự thay đổi hoặc tiến triển.
- - VD: Trong vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt chỉ có 2 dạng thoại chính là đối thoại và độc thoại Trong một vở kịch yếu tố lời thoại là chiếc chìa khóa vàng để đi sâu khám phá tính cách, nội tâm nhân vật. Từ đó chúng ta hiểu được tư tưởng mà nhà viết kịch muốn gửi gắm. Do vậy, khi phân tích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” không thể không nhắc đến yếu tố lời thoại. Xét trên góc độ văn bản kịch, yếu tố lời thoại ở đây được thể hiện chủ yếu qua đối thoại và độc thoại. Riêng về bàng thoại – lời của nhân vật giao tiếp với khán giả - thì không xuất hiện trong văn bản kịch này. Vậy nên trong bài phân tích này chúng tôi đề cập đến yếu tố đối thoại và độc thoại để từ đó có thể hiểu sâu sắc giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm.
- * Lời đối thoại giữa hồn Trương Ba - xác hàng thịt Sau một thời gian hồn Trương Ba sống trong xác hàng thịt, rất nhiều mâu thuẫn đã nảy sinh. Dường như trong xác hàng thịt, Trương Ba đã trở thành một con người khác. Hồi VII của vở kịch là quá trình hồn Trương Ba muốn tách ra khỏi xác hàng thịt và là lúc mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm. Đầu tiên, hồn Trương Ba và xác hàng thịt tranh luận về sức mạnh của thể xác (tư tưởng hồn - xác đối lập). Tiếp đến hồn Trương Ba và xác hàng thịt tranh luận về vai trò của thể xác (tư tưởng hồn – xác là một, xác chi phối hồn).
- Như vậy cuộc đối thoại giữa hồn và xác đã thể hiện mâu thuẫn trong chính bản thân nhân vật Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, đẩy xung đột kịch lên đỉnh điểm: Trương Ba thấy mình bị tha hóa: hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hồn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ - một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, không phải là chính mình.
- Ở đây, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giữa cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Tác giả xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong.
- Qua đó triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại hiện lên rõ nét: linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác. Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác ông vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác. Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
- * Lời đối thoại giữa Trương Ba với những thành viên trong gia đình Từ khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hàng thịt. Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng, làm “gãy tiệt cái mầm non” của cây cam, đã “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị.
- Từ ngày mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ. Vợ Trương Ba muốn bỏ đi để ông được thảnh thơi với cô vợ người hàng thịt: “ông đâu còn là ông, đâu còn là Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Người vợ vị tha, nhẫn nhịn, hết mực yêu thương chồng nay mang tâm trạng đau khổ tột cùng vì chứng kiến sự đổi thay của chồng. Nỗi đau hiện tại còn kinh khủng hơn giây phút bà tiễn thân xác chồng khỏi thế gian. Hồn Trương Ba ngơ ngác, thảng thốt và rơi vào trạng thái thẫn thờ, tê xót qua một loạt lời thoại ngắn, toàn câu hỏi: “Sao bà lại nói thế?”, “Đi đâu?”, “Sao lại đến nông nỗi này?”, “Thật sao?”, “Không được.”
- Với cái Gái - người luôn yêu thương gắn bó với ông hết mực, đêm nào cũng khóc, nâng niu từng chút kỉ niệm của ông nên phản ứng dữ dội khi xác hàng thịt sống trong nhà mình và nhận là ông nó. Nó nói những lời lẽ tàn nhẫn, phũ phàng chối bỏ, xua đuổi Hồn Trương Ba: “Tôi không phải cháu của ông”, “Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông.” Tâm hồn trẻ thơ vốn trong trẻo, chỉ có hai màu sáng tối, kiên quyết không chấp nhận cái xấu, cái ác. Hồn Trương Ba run rẩy trước những lời nói của cháu nhỏ, thêm một lần nữa chúng xoáy khoét vào nỗi đau thăm thẳm của ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị chính những người thân yêu chối bỏ.
- Con dâu luôn thấu hiểu và cảm thông với hồn Trương Ba “thầy khổ hơn xưa nhiều lắm”, “thương hơn” nay nhận thức một sự thật đau đớn: “làm sao để giữ thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”. Trước những lời lẽ chân thực của con dâu, hồn Trương Ba “lạnh ngắt như tảng đá”, hoàn toàn tuyệt vọng.
- Người con trai vốn tính thực dụng, trước kia đã mâu thuẫn với bố nay Trương Ba trong cảnh hồn xác bất nhất thì xung đột lại càng gay gắt hơn. Anh con trai muốn lợi dụng thân xác bố mình đang mang hòng kiếm chác, lừa đảo: “Hôm qua thầy là thầy, hôm nay thầy ở trong thân Anh hàng thịt, tôi đối với thầy vẫn thế thôi Mà tôi nghĩ thầy đổi thân xác thế càng hay! Thậm chí tôi còn mong được như thầy. Thử hình dung mà xem: Bọn lái buôn trên tỉnh, bọn quan nha lính tráng chúng đã nhẵn mặt tôi rồi, khó giở trò gì với chúng được, bỗng dưng một hôm nào đó từ mặt mũi tới người ngợm tôi thay đổi hoàn toàn, tôi ra bộ một anh lái buôn ngờ nghệch mới mang hàng quý từ phương xa đến, thể nào chúng cũng mắc lỡm với tôi, tôi sẽ vét túi được cả những thằng keo kiệt nhất!”
- Thế nhưng hồn Trương Ba “mượn thân anh hàng thịt, nhất quyết không phải để làm những việc như anh nói” là lừa lọc, gian trá mà là “để sống, để được sống.” Đó là suy nghĩ trái ngược nhau về quan niệm sống của hai cha con: một người chạy theo vật chất bất chấp thủ đoạn, một người sống với sự thanh cao của tâm hồn và kiên quyết bảo vệ nó đến cùng. Nhưng trước những lời lẽ xúc phạm của con mình, hồn Trương Ba đã không kiềm chế được bản thân và tát con trai tóe máu mồm máu mũi bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hàng thịt. Chính hồn Trương Ba cũng không bảo vệ được sự thanh cao của tâm hồn.
- Bốn lượt đối thoại đi qua đẩy bi kịch của Hồn Trương Ba lên tới chót đỉnh. Những người thân thiết nhất cũng không chấp nhận nổi tình trạng hồn xác bất nhất của chồng, cha, ông mình. Con người Phương Đông vốn coi mái nhà và quan hệ ruột thịt là nền tảng tinh thần. Mất nó, con người gần như mất tất cả, rơi vào trạng thái đơn độc, chống chếnh. Đối thoại với những người thân mới cho nhân vật nhận cảm thấm thía tình trạng của bản thân, để đi đến hành động giải thoát quyết liệt. Nhà văn không đưa đối thoại với người con trai (lúc này đã bị đồng tiền cám dỗ, sinh ra thói con buôn vụ lợi) vào hồi VII mà để Hồn đối thoại với vợ, cháu gái, con dâu – những người yêu thương, gắn bó với Trương Ba nhất để dẫn dắt Trương Ba đến nhận thức sâu sắc về tình trạng tuyệt vọng không lối thoát của bản thân mình.
- * Lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người dân trong làng Khi rơi vào nghịch cảnh trớ trêu hồn mình nhập vào xác hàng thịt, hồn Trương Ba phải phân bua với dân làng mà cụ thể là vợ hàng thịt, hai người lái lợn, lý trưởng và Trưởng Hoạt. Dựa vào lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với các nhân vật này, có thể thấy sự phản ứng của dân làng - xã hội thu nhỏ: người thì tin trong xác hàng thịt là Trương Ba thật, người thì dửng dưng không quan tâm.
- Hai người lái lợn ban đầu hoảng sợ, nửa tin nửa ngờ nhưng sau một thời gian thì cũng phải chấp nhận đó thực sự là hồn Trương Ba trong xác hàng thịt. Tên lý trưởng tỏ ra không quan tâm là hồn ai, xác ai, hắn cho rằng “Vui thật, hôm nay vui thật! Có thế chứ: Phải biết dựa vào nhau ăn ở cho biết điều là thông đồng bén giọt cả! Ông núp vào thân một anh hàng thịt chứ mười anh hàng thịt ta cũng che chở được! Phải, thế mà hay! Có độ dăm bảy kẻ đội lốt người khác như ông Trương Ba đây thì thầy Lý tha hồ uống rượu. Ờ giá mà cả làng cả tổng cả thiên hạ này đều hồn nọ lốt kia nhỉ?”
- Người duy nhất tỏ ra vui mừng sau khi biết chắc chắn trong xác hàng thịt là hồn Trương Ba - Trưởng Hoạt - người bạn cờ lâu năm của Trương Ba đã ràn rụa nước mắt: “Bác Trương! Bác Trương! Bác không chết đấy chứ? Bác về với tôi đây rồi phải không bác?” Nhưng sau đó Trưởng Hoạt lại thất vọng vì người bạn thân bao lâu của mình đã thay đổi kể cả trong việc đi từng nước cờ: “Người đàng hoàng không ai đòi ăn nước ấy! (Thất vọng) Vâng, tôi thua. Nhưng bác Trương ạ, tôi không hiểu nổi. Lối đánh của bác khác hẳn ngày xưa. Thoạt trông thì thấy cách vào cờ của bác vẫn như xưa, nhưng sau thì Chẳng còn cái khoáng hoạt, dũng mãnh thâm sâu ngày trước. Cách tiến cách thủ của bác bây giờ vụn vặt, tủn mủn thô phũ. Mà cái nước ăn vừa rồi nói xin lỗi bác nó bần tiện làm sao!” Trưởng Hoạt phải thốt lên rằng “Bác thay tâm đổi tính thật rồi, bác Trương Ba ạ!”
- Vợ hàng thịt sau khi tin hồn Trương Ba sống trong xác chồng mình thì lại nảy sinh khao khát muốn hồn Trương Ba thực sự trở thành chồng mình. Bà vợ hàng thịt không phải ghét bỏ con người cũ của chồng mình, mà chỉ là từ khi gặp được hồn Trương Ba người vợ ấy mới biết được mình đã thiếu những gì, mình muốn những gì. Hồn Trương Ba hoàn toàn bơ vơ, lạc lõng trong ngôi làng quen thuộc của mình khi phải sống trong xác hàng thịt. Cái xã hội thu nhỏ ấy đã chấp nhận hồn Trương Ba nhưng dường như lại không phải như vậy. Hồn Trương Ba sống cạnh những người gần gũi với mình nhưng lại vô cùng xa cách, không thể hòa hợp.
- * Lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích Các nhân vật Nam Tào, Bắc Đẩu, Đế Thích là những nhân vật nắm giữ quyền sinh sát trong tay, tạo ra mâu thuẫn đồng thời cũng đứng ra giải quyết mâu thuẫn. Lời đối thoại của hồn Trương Ba với nhân vật này tập trung chủ yếu ở hồi VII - hồi mở nút giải quyết xung đột trong vở kịch. Thông qua nhân vật Đế Thích, tác giả đã gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, sự sống và cái chết.
- Đế Thích đưa ra đề xuất để Trương Ba được sống bằng cách để hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Đây là một cách tồn tại “dễ thở” hơn, “dễ chịu” hơn. Đế Thích không hiểu được những suy nghĩ của Trương Ba và cho rằng “con người trần giới các ông thật kì lạ”. Đây là vị thần tiên quyền phép biến hóa, yêu mến Trương Ba nhưng rốt cuộc vẫn mang tầm nhìn, điểm nhìn xa lạ, không thể thấu hiểu những suy nghĩ trần thế. Lựa chọn của hồn Trương Ba “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc. Hồn và xác luôn thống nhất hài hòa trong một con người.
- Chi tiết cu Tị chết đã đẩy bi kịch đến chỗ “mở nút”. Hồn Trương Ba tưởng tượng ra giả cảnh khi nhập xác đứa bé, bao nhiêu phiền toái khác do sự vênh lệch hồn xác sẽ xảy ra, nghĩ đến nỗi đau của người thân cu Tị khiến hồn Trương Ba nhận thức tỉnh táo, quyết định sáng suốt: xin cho cu Tị sống lại, để mình chết hẳn. Ngoài những lượt đối thoại trên, trong vở kịch còn xuất hiện nhiều lời đối thoại giữa các nhân vật khác với nhau như: Nam Tào - Bắc Đẩu - Đế Thích, vợ Trương Ba - Đế Thích, vợ Trương Ba - vợ hàng thịt, nhưng những lượt đối thoại này thì không tác động nhiều đến việc tạo ra xung đột kịch.
- + Về lời độc thoại: Có thể nói yếu tố độc thoại bắt đầu xuất hiện với tần số cao kể từ khi hồn của Trương Ba sống trong thân xác của anh hàng thịt tức là kể từ khi bi kịch của Trương Ba bắt đầu. Trong các cuộc đối thoại với người thân (vợ, con trai, con dâu, cháu gái) và với xác hàng thịt, chúng ta không chỉ tập trung vào lời đối thoại mà cần tinh ý quan tâm đến những lời độc thoại của nhân vật.
- Sau khi được sống lại và trở về với thân xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã hết sức ngỡ ngàng, bàng hoàng khi biết mình mang thân xác của một người hoàn toàn khác. Đây cũng là một quy luật tâm lí hết sức tự nhiên của con người: “Bức quá, ngột quá! Tôi ở đâu thế này, mấy người kia là ai? Quái, tôi ở đâu thế này?” , “Không! Không phải tôi! Không phải . Không! Không phải tôi! Cái mặt của tôi đâu rồi?Chân tay của tôi đâu rồi? Tôi là Trương Ba cơ mà! Người này không phải tôi! Nhưng nhưng mình đang ở đây Rõ ràng mình là mình đây, có là ai khác đâu! Ai làm mặt mũi người ngợm tôi thành ra thế này?”
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: "- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát".
- Từ lời độc thoại này có thể thấy: Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ với những câu cảm thán ngắn, dồn dập mang tính chất phủ định dứt khoát “Không. Không!” cùng với ước nguyện khắc khoải “Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!”. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm cái thân xác kềnh càng thô lỗ khiến hồn “chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!”. Từ đó hồn Trương Ba đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Thông thường chỉ khi nào con người mất hết niềm tin, đã quá tuyệt vọng thì mới chán ngán bản thân mình đến mức muốn thoát khỏi bản thân mình. Nếu Chí Phèo chán ngắt bản thân đến mức chửi rủa chính người đã sinh ra mình thì ở đây hồn Trương Ba không chỉ chán chính cái xác của mình mà còn muốn xa lánh và vĩnh viễn xa rời cái xác âm u, đui mù đó. Chỉ ước ao “tách ra khỏi cái xác này dù chỉ một lát”
- Trước khi vĩnh viễn rời khỏi cuộc đời , Trương Ba đã có những lời độc thoại cảm động: “ Còn một lúc nữa U thằng Cả có về kịp không? Thế là anh sắp không phải mang hồn tôi nữa rồi, thân thể anh hàng thịt ạ! Đã có lúc , không hiểu sao tôi ghét giận anh nhưng giờ đây khi sắp rời khỏi anh tôi bỗng thấy ngậm ngùi. Ba tháng mang hồn tôi, thân anh gầy hẳn đi mà hồn tôi thì cũng suýt nữa suy sụp tan nát cả. ta chia tay nhau vậy. Anh sẽ về gặp lại chị vợ anh Người đàn bà ấy cũng lạ thật! Anh cho tôi gửi lời chào chị ấy. Chị ấy có nhớ gì tới tôi không? Anh có thay đổi tâm tính đi không để chị ấy đỡ khổ. Giờ thì chị ấy sẽ đòi anh thay đổi tâm tính đấy”
- Tóm lại, qua những lời độc thoại này, chúng ta thấy được ý nghĩa triết lí sâu sắc: Con người chỉ có thể hạnh phúc khi được là chính bản thân mình, đừng bao giờ đánh giá phần hồn hay phần xác quan trọng hơn mà phải chăm chút cho cả phần hồn và phần xác, nghĩa là phải có sự thống nhất giữa bên ngoài và bên trong, giữa thể xác và tâm hồn, giữa suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Tư tưởng ấy không chỉ đúng với một người, một thời mà nó còn nguyên giá trị với mọi thời đại.