Chuyên đề Phương pháp dạy kĩ năng đọc môn Tiếng Anh
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Phương pháp dạy kĩ năng đọc môn Tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_phuong_phap_day_ki_nang_doc_mon_tieng_anh.doc
Nội dung text: Chuyên đề Phương pháp dạy kĩ năng đọc môn Tiếng Anh
- CHUYấN ĐỀ LÍ THUYẾT BỘ MễN TIẾNG ANH TấN CHUYấN ĐỀ:“Phương phỏp dạy kĩ năng đọc mụn Tiếng Anh” A. Nội dung 1. Tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng đọc. Đọc là một kĩ năng quan trọng rất cần thiết trong việc dạy và học ngôn ngữ ở các cấp lớp. Trong lớp học ngoại ngữ học sinh để nắm bắt thông tin, để kiểm tra lại các dữ liệu để tìm câu hỏi trả lời cho những câu hỏi hoặc làm sáng tỏ một số vấn đề nào đó Nếu không đọc được thì học sinh sẽ khó tiếp thu và ghi nhớ được dữ liệu và thông tin lâu dài. Trong cuộc sống hàng ngày học sinh lưu trữ được rất nhiều thông tin qua dạy chữ viết từ việc học qua sách vở trong trường đến việc đọc những thông tin nhằm quảng cáo tiếp thị, hướng dẫn sử dụng máy móc, thiết bị, thông báo tin tức qua báo chí, truyền hình Học đọc có nghĩa là người học được rèn luyện để nhận ra mặt chữ và ý nghĩa của thông tin đang được đọc. Người việt học đọc Tiếng Anh có nhiều thuận lợi hơn một số dân tộc khác như người Hoa, người Thái, người Nga, ngừơi ARập vì hệ thống chữ viết của Tiếng Việt và Tiếng Anh gần giống nhau, chỉ một số rất ít mẫu tự khác nhau Z, W, J, tuỳ theo mục đích của bài học giáo viên có thể dạy học theo một vài cách khác nhau. - Người đọc thay phiên nhau đọc lớn tiếng (thường áp dụng trong các lớp bắt đầu học và cho người nhỏ tuổi). - Giáo viên đọc, học sinh dò theo trong sách. 1
- - Học sinh đọc thầm. Việc đọc trong lớp theo các phương pháp cũ thường manh tính “ép buộc” vì giáo viên thường ra bài tập để học sinh thực hiện. Để việc dạy đọc có hiệu quả và mang tính giao tiếp hơn, giáo viên cần có giai đoạn chuẩn bị và làm cho học sinh cảm thấy có nhu cầu đọc. Các bài đọc cần phải chuẩn xác về ngôn ngữ, phong phú và đa dạng về thể loại, có nội dung liên quan và làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của học sinh, gây hứng thú việc đọc không bị nhàm chán. Lời hướng dẫn thực hiện các bài tập đọc cần chú ý nhấn mạnh hướng dạy các kĩ thuật đọc và việc thảo luận mở rộng đề tài của bài đọc. 2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc dạy học. - Khả năng tập trung của học sinh trong một thời gian tối thiểu. - Khả năng đọc hiểu lời hướng dẫn. - Khả năng đọc một mình và đọc với người khác. - Khả năng nêu lên từng mục trong hình. - Khả năng nhận ra ý tưởng do tranh thể hiện một vật thực nào đó. - Khả năng nhận ra các kí hiệu âm thanh và hình ảnh. Các khả năng này có thể đạt được qua quá trình rèn luyện trong các hoạt động đọc và viết mà học sinh thực hiện. Kết quả mau hay chậm tuỳ vào kiến thức nền mà học sinh đã có trước trong việc học tiếng mẹ đẻ, sức khoẻ, và sự sắc sảo trong khả năng nghe và nhìn. II. Cơ sở thực hiện 1. Thực trạng của kĩ năng đọc Tiếng Anh ở trường THCS. Mặc dù Tiếng Anh đã trở thành môn học chính thức trong trường học. Nhưng việc phát huy lợi ích của nó vẫn chưa được quan tâm nhiều. Một phần do hạn chế về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, nhưng phần lớn là do chất lượng dạy học chưa cao, chưa thu hút được sự ham mê học tập của học sinh. Điều thể hiện rõ rệt trong các giờ dạy. Học sinh luôn tìm cách lẫn tránh việc phải đọc một bài văn dài với những dòng 2
- chữ dày đặc từ mới. Mặt khác, hầu hết học sinh chỉ quan tâm đến nghĩa của từ mà không đi sâu tìm hiểu bài đọc. Kết quả các em không thể trả lời hoàn chỉnh các câu hỏi về bài học. Chất lượng dạy học vì thế mà giảm xuống, không đáp được đề ra của chương trình. Bên cạnh đó, vai trò của giáo viên không thể không kể đến. Chất lượng dạy học có được nâng cao, phương pháp dạy học có đổi mới phù hợp với từng bài học, từng đối tượng học sinh. Trong chương trình SGK cũ, kĩ năng đọc được rèn luyện đồng thời với các kĩ năng nghe – nói và viết. Từ mới và cấu trúc mới trong mỗi bài đọc thường ít hoặc là những chủ đề quen thuộc, học sinh đã biết qua, giáo viên chỉ cần đặt câu hỏi và yêu cầu học sinh trả lời theo kiểu ép buộc. Sau khi chương trình Tiếng Anh được biên soạn lại. Kĩ năng đọc được rèn luyện riêng rẽ, việc đổi phương pháp dạy học càng được chú trọng và bắt buộc phải thực hiện theo .Nhiều đề tài mới lạ được đề cập đến, số lượng từ vựng cũng nhiều lên . Học sinh cảm thấy quá tải , phương pháp cũ vì thế mà không còn phù hợp . Chính vì vậy, trong việc này giáo viên mất vai trò chủ đạo . Dạy như thế nào để vừa đáp ứng được yêu cầu thực tế, vừa nâng cao được chất lượng học tập của các em. Biện pháp hữu hiện để giải quyết vấn đề vướng mắc này cũng chính là những phương pháp thiết thực được áp dụng có hiệu quả vào mỗi tiết dạy kĩ năng đọc. 2. Tiến trình dạy kĩ năng đọc. Trong thực hành giảng dạy có thể chia việc dạy đọc làm các giai đoạn sau: a. Giai đoạn chuẩn bị Trong giai đoạn này giáo viên cần giới thiệu tổng quát về đề tài sắp đọc,dùng các dữ kiện có liên quan đến kinh nghiệm sống của học sinh qua một số hoạt động như: Đặt câu hỏi trước và giúp học sinh đoán trước nội dung của bài đọc. Nếu bài đọc là một đoạn hội thoại giáo viên có thể nói đến địa điểm diễn ra hội thoại, số người tham gia và nếu có thể, về mối liên hệ giữa những người (Người trong gia đình, bạn bè, người quen ). Nếu là một đoạn trích trong một truyện ngắn, giáo viên có thể cho một hay vài người học điểm lại những sự kiện chính trước đo. 3
- Trong một số sách giáo khoa thường có in tranh ảnh kèm với bài đọc. Giáo viên nên sử dụng những tranh ảnh này để hướng sự chú ý của học sinh vào nội dung bài đọc bằng các giúp họ đoán trước những ý tưởng và ngôn ngữ sẽ được thể hiện trong bài. 1. Thông thường giáo viên chỉ cần nêu vài câu gợi mở trong giai đoạn này. Các câu hỏi này thể hiện câu trúc cơ bản của bài đọc và là phương tiện để giúp học sinh đoán trước nội dung của bài đọc, từ đó chuyển sang việc đọc bài văn nột cách tự nhiên. hơn. Đội khi giáo viên có thể yêu cầu học sinh đọc lướt qua bài để có một số ý niệm tổng quát về thông tin trong bài đọc. Bằng một số hoạt động như thế giáo viên có thể gây hứng thú “Muốn đọc” và là cho học sinh quan tâm đến chủ đề sắp được học Các hoạt động trong giai đoạn này có thể thay đổi theo tình hình thực tế của lớp học và trình độ học sinh. Giáo viên có thể thực hiện một hay hai hoạt động trong giai đoạn này. 2. Học sinh đánh dấu vào “đúng” hay“sai” một số thông tin cho sẵn. 3. Học sinh đoán và điền số từ, ngữ thích hợp những chỗ trống của đoạn văn cho sẵn. 4. Học sinh thảo luận trước và cho ý kiến cá nhân về đề tài của bài văn. 5. Dự đoán nghĩa của một số từ hoặc tra nghĩa của các từ trong từ điển. 6. Giáo viên có thể tổ chức trò chơi (Dùng các từ có liên quan đến bài học theo kiểu Bingo, Questionares, ....) b. Giai đoạn đọc (While reading) Trong quá trình này các hoạt động được tổ chức nhằm giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng đọc hiểu; một số kĩ năng đọc khác được kết hợp trong việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu. Các kĩ năng thường dùng trong giai đoạn này là đọc tập trung và đọc mở rộng. Đọc tập trung có nghĩa là người đọc phải hiểu tất cả những gì đã đọc và có thể trả lời các câu hỏi chi tiết về từ, ngữ và ý tưởng được diễn đạt qua bài văn. 4
- Đọc mở rộng có nghĩa là học sinh hiểu một cách tổng quát về bài văn mà không cần thiết phải hiểu từng từ hoặc từng ý việc đọc tập trung sẽ giúp cho học sinh đọc mở rộng tốt hơn. Đồng thời việc đọc mở rộng cũng sẽ giúp cho học sinh tự tin hơn khi tiếp xúc với các văn bản chuẩn xác. Đối với một bài đọc dài, giáo viên có thể áp dụng cách đọc mở rộng ở một vài đoạn và cho học sinh đọc tập trung ở những đoạn khác. Nếu để cho học sinh đọc tập trung bài văn quá dài các em sẽ mất hứng thú và cũng sẽ không đủ thời gian rèn luyện kĩ năng đọc nhanh. Bài đọc trong sách giáo khoa cũ thường được chuẩn bị kĩ, có chọn lọc và giới hạn về ngôn ngữ để học sinh áp dụng lối đọc tập trung. Nhưng trong các sách GK mới hình thức bài đọc phong phú, đa dạng và chuẩn xác. với cách đọc mở rộng học sinh sẽ cảm thấy dù trình độ ngôn ngữ của các em còn hạn chế, các em vẫn có thể một cách khái quát những gì được thông tin qua ngôn ngữ thực được dùng trong cuộc sống. Ở các lớp lớn, nên hạn chế việc cho học sinh đọc lớn bài văn vì việc đọc như thế rất khó đối với họ. Bài văn có thể nhiều từ mà học sinh chưa biết cách phát âm; các bài hội thoại có thể đòi hỏi sự thấu hiểu các cấu trúc, ngữ điệu đặc biệt mà học sinh không biết. Việc đọc một bài văn không được chuẩn bị trước sẽ làm cho học sinh đọc kém tự nhiên, ngập ngừng, hoặc phát âm sai làm ảnh hưởng đến những học sinh khác. Trong khi đọc thành tiếng học sinh sẽ tập trung nhiều vào phần phát âm hơn là phần ý nghĩa của văn bản, do đó có thể học sinh đọc thành tiếng tốt nhưng lại hiểu ít hoặc thậm chí không hiểu gì về điều đã đọc. Trước hết, giáo viên đọc cả bài văn hoặc cho học sinh nghe băng tiếng do người bản ngữ đọc, sau đấy giáo viên cho học sinh đọc thầm. Giáo viên sẽ giúp các cá nhân nào gặp khó khăn trong khi đọc. Việc cho HS đọc lớn bài văn cần có sự chuẩn bị trước để việc đọc không mất thời gian và kém hiệu quả. Giáo viên cần luân đổi cách dạy đọc. Trong việc dạy đọc mở rộng, hình thức đọc thầm rất thích hợp mà mang lại hiệu quả cao. Giáo viên giới hạn thời gian đọc và sau đấy cho một số câu để kiểm tra mức độ đọc hiểu của học sinh. Phần lớn các bài 5
- văn nghị luận, thảo luận được viết ra là để đọc thầm. chỉ những thể loại như thơ, đồng dao, và hội thoại mới được viết ra để đọc lớn. Vì vậy GV nên tuỳ theo thể loại văn mà áp dụng cách dạy đọc. Trong trường hợp cho HS đọc lớn, cần có sự chuẩn bị trước và thực hiện thay đổi theo một số cách như sau: 1. Đối với những lớp mới bắt đầu học, giáo viên đọc mẫu, cả lớp lặp lại từng câu. 2. ở từng lớp có trình độ thấp, ngoài việc lặp lại theo GV, HS có thể lặp lại theo băng tiếng. Việc lặp lại theo băng tiếng thường khó hơn lặp lại theogiáo viên vì giọng nói trong băng tiếng thường khó nghe hơn giọng nói của giáo viên. 3. Giáo viên đọc một đoạn, sau đấy cả lớp đọc lại đoạn bài học đó. 4. Một HS đọc lại từng câu theo GV. 5. Lớp được chia làm nhiều nhóm hai người hoặc nhiều người. Mỗi nhóm chuẩn bị một đoạn, sau đấy một đại diện của mỗi nhóm sẽ đọc một đoạn. Trong trường hợp bài đọc là một đoạn hội thoại, nhóm sẽ phân vai và chuẩn bị. GV thảo luận với những nhóm có khó khăn về phát âm (trọng âm, tiết tấu và ngữ điệu). Sau đó một nhóm nào đấy sẽ được chọn để đóng vai diễn cho cả lớp theo dõi. Trong khi dạy đọc GV sẽ nêu một số câu hỏi nhằm hướng dẫn HS đọc hiểu nội dung thông tin trong bài, đồng thời cũng để đo lường mức độ của HS, từ đó GV có thể giải thích thêm về các chi tiết còn chưa rõ. Vì vậy nội dung các câu hỏi cần phải hướng sự chú ý của học sinh đến những ý tưởng chính trong bài và giúp HS hiểu nghĩa của bài văn, không nên đặt các câu hỏi quá dài và quá khó để đánh đố HS mà nêu các câu hỏi ngắn gọn vì mục đích chính là giúp HS đọc hiểu bài. Giáo viên cần khuyến khích và tổ chức sao cho cả lớp tham gia vào hoạt động trả lời các câu hỏi. Sau đấy hướng dẫn để HS phân biệt được các câu trả lời đúng, sai. Trong giai đoạn này, GV có thể tổ chức lớp thành hoạt động nhóm – hai HS hay nhiều hơn hai để thảo luận các câu trả lời. Bằng cách này, tất cả mọi người trong lớp phải tham gia hoạt động trả lời và hoạt động này HS sẽ có cơ hội làm việc chung, thảo luận và giúp đỡ lẫn nhau. 6
- Hình thức trả lời có thể là nói hay viết. Việc trả lời nói sẽ ít mất thời gian hơn và được nhiều GV áp dụng. Nhưng trong một lớp đông, GV gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát lại tất cả HS có hiểu bài thật sự hay không. Hình thức viết câu trả lời sẽ giúp HS có nhiều thì giờ để suy nghĩ, dễ tổ chức và kiểm tra, dùng từ, ngữ có hiệu quả trong lớp đông học sinh. Nhưng hình thức này mất nhiều thời gian hơn. Giáo viên cần khuyến khích học sinh viết những câu trả lời ngắn vì mục đích của bài tập này chỉ nhằm kiểm tra mức độ hiểu bài đọc. Một số hoạt động trong giai đoạn này có thể là: 1. Hỏi và trả lời. 2. Đọc và điền vào các ô còn trống thông tin trong một bảng. 3. Đọc và sắp xếp tranh theo đúng thứ tự được mô trong bài đọc hay sắp xếp theo thứ tự những lời hướng dẫn thực hành các bước trong một qui trình thực nghiệm, thao tác chuẩn bị một thiết bị điện hay điện tử... 4. Đọc và vẽ tranh thể hiện nội dung hướng dẫn. 5. Đọc và ghi lại những thông tin chính dưới một hình thức khác. Đọc tóm tắt lại ý chính của bài đọc.... c. Các bài tập củng cố (Post reading). Trong giai đoạn hiện nay HS sẽ tham gia một số hoạt động nhằm mở rộng việc khai thác bài đọc và phát triển một số kĩ năng khác ngoài kĩ năng đọc. Bài tập có thể là: 1. Điền vào một bảng cho sẵn để giúp HS tập trung vào những điểm chính của bài đọc, đặc biệt là đối với các bạn đọc có nhiều số liệu thống kê và dữ kiện. 2. Trả lời một số câu hỏi có liên quan đến kinh nghiệm, ý kiến tình cảm, thái độ của cá nhân hoặc kèm theo việc giải thích lí do. 3.Viết bài tóm tắt, bài phê bình dựa trên các thông tin của bài đọc .... III. Kết quả Sau một thời gian băn khoăn, trăn trở với phương pháp mình đã chọn, liệu HS có hiểu bài tốt hơn không. Bằng việc kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh tôi đã thu 7
- được kết quả khả quan hơn nhiều so với chất lượng trước khi áp dụng phương pháp mới. Có thể thấy, với việc áp dụng phương pháp dạy kĩ năng đọc như đã nêu trên vào thực tế giảng dạy thì kết quả được cao hơn nhiều. Điều đó đã thúc đẩy tôi không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả tốt hơn nữa. Trên đây là một vài phương pháp dạy kĩ năng đọc mà tôi đã áp dụng cho học sinh thcs và đạt được một số hiệu quả nhất định. Rất mong đồng nghiệp tham khảo và góp ý để ngày càng có những phương pháp tốt hơn cho việc dạy và học Tiếng Anh. Tụi xin trõn trọng cảm ơn Đụng Hợp , ngày 30 thỏng 01 năm 2023 G/V: Vũ Văn Ỏnh 8