Báo cáo Sáng kiến Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang

pdf 15 trang Minh Lan 15/04/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Sáng kiến Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_sang_kien_long_ghep_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_cach_dun.pdf

Nội dung text: Báo cáo Sáng kiến Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang

  1. BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: " Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang ”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học 3. Tác giả: - Họ và tên: Đỗ Cao Dung (Nam) - Ngày, tháng, năm sinh: 11/10/1981 - Trình độ chuyên môn: Đại học Văn- Sử - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị công tác: Trường THCS Liên Giang - Điện thoại: 0965.364.381 Email: chauhung0712@gmail.com - Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 4. Đồng tác giả: Không. 5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến: - Tên đơn vị: Trường Trung học cơ sở Liên Giang - Địa chỉ: xã Liên Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình 7. Thời gian áp dụng sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng lần đầu trong thực tế từ năm học 2020 - 2021. II. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN, KINH NGHIỆM 1. Tên sáng kiến:
  2. " Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang ”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học . 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: Theo nội dung quy định tại điểm d khoản 1 Điều 5 của Thông tư số 18/2013/TT- BKHCN hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ Sáng kiến; xác định đối với bất kỳ lĩnh vực, môn học nào. Dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một quá trình giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của sử dân tộc nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung, nhằm phục vụ cho việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Lịch sử vốn tồn tại khách quan và đã diễn ra trong quá khứ, cho nên muốn học sinh tiếp thu được vấn đề đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau sao cho đạt kết quả cao. Với phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động lĩnh hội tri thức, càng đòi hỏi người thầy giáo phải khai thác triệt để các phương pháp dạy học tích cực để thu hút sự chú ý của học sinh. Đồng thời lôi cuốn sự ham mê đối với học sinh học môn lịch sử trong tình hình hiện nay. Đặc thù của bộ môn Lịch sử là: dài, nhiều sự kiện với những mốc Lịch sử khác nhau nên khó ghi nhớ. Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của một địa phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là ý nghĩa quốc tế. Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ là việc riêng của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Từ đặc điểm bộ môn và yêu cầu thực tế, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm, làm cho giờ học Lịch sử sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Để phát huy hơn nữa tính chủ động tích cực học tập, tránh nhàm chán thì việc vận dụng những hình thức hoạt động như sân khấu hóa, hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm, sáng tạo... sẽ giúp học sinh hứng thú say mê học tập môn Lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lịch sử. Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: " Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang ”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh tự giác, chủ động lĩnh hội kiến thức và ngày càng yêu thích học môn lịch sử, đem lại chất lượng, hiệu quả cho bộ môn lịch sử.
  3. 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: Môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa đối với giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc. Tự hào với những thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác định vị trí trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Trong nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII (tháng 2 năm 1997), đã khẳng định vai trò của môn lịch sử cùng các môn khoa học khác trong công tác giáo dục. Không phải ngày nay, Nhà nước mới quan tâm đến giáo dục. Từ năm 1998, Luật giáo dục cũng đã xác định “ phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực của học sinh, bồi dưỡng năng lực học tập có lòng say mê học tập và có ý thức vươn lên”, cũng như các môn học khác, đặc điểm và chức năng của mình, việc học tập lịch sử lại cần phát huy tính tích cực của học sinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh người con ưu tú của dân tộc, là danh nhân văn hóa của thế giới. Người là kết tinh của tư tưởng “Đại nhân, Đại nghĩa”. Người để lại cho dân tộc ta một tư tưởng cách mạng, một nhân cách đạo đức cao cả. Người đã làm “rạng rỡ non sông ta, đất nước ta”. Suốt cuộc đời hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước theo hướng tích cực, chủ động hội nhập thế giới. Vừa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vừa chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa thế giới. Vì vậy việc học tập, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, lối sống và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là việc làm hết sức cần thiết. Bởi vì tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng của xã hội, là động lực vượt qua khó khăn, thử thách để phát triển kinh tế đất nước, hoàn thiện nhân cách của mỗi người. Nhưng hiện nay vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Ảnh hưởng tác động của phim, ảnh, lối sống hưởng thụ, các trò chơi điện tử mang nặng lối sống bạo lực .. bên cạnh đó một số phụ huynh lo công việc, ít có thời gian quan tâm đến con cái chỉ phó mặc cho nhà trường. Một khía cạnh khác là suy nghĩ của một số phụ huynh và học sinh chỉ quan tâm đến các môn học tự nhiên, coi môn lịch sử là “môn phụ”. Bộ môn lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục học sinh lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lòng biết ơn ông cha ta đổ bao mồ hôi xương máu mới có được cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay, giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội Xu hướng của sự phát triển giáo dục hiện nay ở các nước trên thế giới là hướng đến việc đào tạo những con người có năng lực đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội, phát triển nền văn minh loài người, biết làm kinh tế, biết quản lý. Trong chiến lược giáo dục các nước đều thể hiện tư tưởng làm cho giáo dục đáp ứng được những thay đổi của xã hội, của thời đại. Trong bối cảnh đó, để nước ta nhanh chóng tiến hành CNH-HĐH đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vững bước đi lên CNXH, phải phát triển giáo dục đào tạo, phát triển nguồn lực con người là yếu tố cơ bản của sự phát triển chung và bền vững, đào tạo những con người “ vừa hồng, vừa chuyên” yêu nước thiết tha. Xuất phát từ nhu cầu chung của xã hội, bộ môn lịch sử trong nhà trường nói chung và
  4. trong lịch sử Việt Nam lớp 9 nói riêng đã được đổi mới về nội dung, chương trình, sách giáo khoa điều đó đã phát huy được tầm quan trọng của bộ môn lịch sử. Thực tế cho thấy một số giáo viên trong quá trình dạy cũng có giáo dục đạo đức Hồ CHí Minh cho học sinh thông qua các câu chuyện nhưng không nói rõ câu chuyện đó giáo dục cho các em tư tưởng, đạo đức gì của Bác để từ đó các em học tập và làm theo tấm gương của Người. Từ thực trạng trên và nhiều năm giảng dạy bộ môn lịch sử tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp những kinh nghiệm " Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang ”. 3.1.1. Ưu điểm. - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến công tác đổi mới PPDH của giáo viên, tạo điều kiện để Tổ bộ môn thao giảng theo từng chuyên đề nhằm nâng cao hiệu quả tiết dạy. - Cơ sở vật chất không ngừng được tăng cường như tranh ảnh, phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại đáp ứng cho yêu cầu đổi mới. - Giáo viên nắm được hệ thống các phương pháp dạy học, phối hợp khá linh hoạt, tổ chức lớp học khá đa dạng và phong phú nên đã tạo ra nhiều tiết dạy sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn được học sinh vào học tập, với sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện và thiết bị dạy học. - Gắn công tác giảng dạy với thực tế cuộc sống, giúp học sinh khám phá được những điều mới thông qua bài học, đồng thời biết vận dụng được các kiến thức đã học vào thực tế lịch sử. 3.1.2. Tồn tại: Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy lịch sử, nhất là các tiết lịch sử địa phương có liên quan đến kiến thức liên môn ở trường THCS, bản thân tôi nhận thấy: * Về phía giáo viên: - Khả năng truyền cảm khi diễn đạt của giáo viên còn có hạn chế nhất định, chưa lôi cuốn học sinh, chưa gây hứng thú yêu thích học bộ môn, còn nặng về truyền đạt kiến thức một cách thụ động, chưa tích cực đổi mới hình thức và cách thức tổ chức dạy học cho hiệu quả.. - Một bộ phận giáo viên chưa quan tâm nghiên cứu phần địa phương. Một số có chú ý nhưng họ chưa hiểu sâu, cặn kẽ về kiến thức, thực hiện các tiết dạy cho qua loa, lấy lệ cho đủ phân phối chương trình nên bài dạy có một trong những biểu hiện sau đây: mang tính áp đặt, dàn trải, ghi nhiều, thiếu khắc sâu kiến thức, đồng thời đi kèm với nó thiếu sự củng cố và sự mở rộng cần thiết kiến thức cho học sinh, thiếu liên hệ thực tế (hoặc bỏ qua hoặc không sát). - Việc hướng dẫn của giáo viên thiếu tính cụ thể, học sinh chưa được định hướng đúng khi khai thác thông tin. Mặt khác, hệ thống câu hỏi dẫn dắt có khi chưa được chọn lọc, thiếu câu hỏi gợi mở từ những câu lệnh của giáo viên, diễn đạt câu hỏi không thoát ý. Làm cho học sinh khó hiểu, ít tham gia xây dựng bài, làm cho tiết học nặng nề.
  5. * Về phía học sinh: - Vì những kiến thức này nó không có sẵn trong sách giáo khoa nên các em chưa có ý thức học tập hoặc hiểu không đúng. - Học sinh chưa ham muốn học tập bộ môn này, chưa chú trọng học tập, cho rằng môn này là môn phụ, không quan trọng, chỉ tập trung vào môn Ngữ văn, Toán, Tiếng Anh. Chính vì vậy, chất lượng học tập môn Lịch sử còn thấp. - Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, sưu tầm mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói. Hơn nữa chương trình lịch sử quá rộng, những tài liệu kiến thức liên môn thì phong phú, các em chưa biết kết nối các thông tin giữa lịch sử và các môn học khác. - Cụ thể qua điều tra thực tế học sinh học tập Lịch sử và kết quả cụ thể qua khảo sát chất lượng như sau: + Khảo sát học sinh năm học 2019- 2020 trước khi áp dụng giải pháp. Chưa Hiểu biết còn Hiểu biết Hiểu biết hiểu biết hạn chế nhiều Mức độ Tổng số SL % SL % SL % SL % học sinh 90 0 0 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến 3.2.1. Mục đích của giải pháp Là giáo viên dạy học lịch sử, qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy rằng việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức trong học tập lịch sử ở trường THCS Liên Giang là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao nhận thức, sự hiểu biết và hứng thú cho học sinh. Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từng bước hội nhập quốc tế để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, sánh vai cùng với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực hiện mục tiêu “xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Học sinh khi ra trường phải là người vừa có tài, có đức “ vừa hồng, vừa chuyên” Đặc biệt giáo dục đạo đức cho học sinh qua tiết học lịch sử là rất quan trọng. Vì môn lịch sử xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, mỗi thời đại đều xuất hiện những anh hùng dân tộc có đầy đủ phẩm chất đạo đức để giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc đưa đất nước ta phát triển. Tiêu biểu trong các vị anh hùng dân tộc đó là chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Người là
  6. kết tinh các phẩm chất cao đẹp của dân tộc ta suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Người đã đi xa nhưng Người đã để lại cho dân tộc một di sản tinh thần hết sức to lớn trên mọi lĩnh vực. Những tư tưởng của Người là “ Kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của Đảng và nhà nước ta. Trước những biến động phức tạp của thế giới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có lối sống thiếu mẫu mực, thậm chí biểu hiện suy thoái về đạo đức. Lối sống đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân. Vì vậy để giáo dục thế hệ trẻ tin tưởng vào bản chất, truyền thống tốt đẹp của Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có lối sống lành mạnh, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội thì việc lồng ghép giáo dục đạo đức tư tưởng của Bác trong dạy lịch sử Việt Nam có tác dụng lớn góp phần hình thành nhân cách, lối sống của học sinh, để học sinh thấm nhuần tư tưởng đạo đức của Bác. Hiện nay toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi nhận thấy rằng việc lồng ghép giáo dục đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh trong các bài giảng là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao được tư tưởng đạo đức cách mạng cho học sinh. Vi việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác để sau này trở thành những công dân có đủ phẩm chất cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: " Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh về cách dùng người trong tiết dạy Lịch sử 9 ở trường THCS Liên Giang ”. 3.2.2. Nội dung giải pháp 3.2.2.1. Tính mới của giải pháp: Thực hiện sự chỉ đạo chuyên môn của Phòng Giáo dục đào tạo huyện Đông Hưng về kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học, căn cứ vào kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2020 - 2021 của Trường THCS Liên Giang; Năm học 2020 - 2021, là năm học chứng kiến nhiều hoạt động chính trị tiêu biểu, là năm diễn ra Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cuộc bầu cử Quốc Hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp. Là năm có nhiều hoạt động chào mừng kỉ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc: kỉ niệm 46 năm ngày giải phóng miền Nam, 67 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, đặc biệt là năm kỉ niệm 51 năm thực hiện Di chúc của Bác, 121 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện sự phân công chuyên môn của Ban giám hiệu nhà trường và Tổ KHXH. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử trong nhiều năm qua, bản thân tôi nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới hình thức hoạt động học tập nhằm giáo dục tuyên truyền sâu rộng trong học sinh về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Do đó tôi đã thực hiện tích hợp, lồng ghép nội dung này vào trong các tiết dạy học Lịch sử lớp 9. Đây là một nội dung không mới, nhưng việc vận dụng nội dung này vào các tiết dạy học làm sao cho phù hợp, tránh khô khan, máy móc, nhàm chán, mang tính áp đặt. Bởi lẽ nội dung học tập về tư tưởng đạo đức của Bác là vô cùng rộng lớn, do đó bản thân không tham vọng sẽ truyền tải hết tất cả tư tưởng đạo đức của Bác mà chỉ lựa chọn một phạm vi nhỏ để
  7. dạy học lồng ghép vào bài học Lịch sử cụ thể. Song bản thân xác định đây là hoạt động chuyên môn có ý nghĩa sâu sắc nhằm đổi mới hình thức tổ chức dạy học Lịch sử và nâng cao nhận thức, tạo sự hứng thú cho học sinh. Trong hoạt động này, với vai trò là người thầy, người giáo viên sẽ lựa chọn nội dung, vấn đề cơ bản, tiêu biểu để tiến hành lồng ghép những nội dung tư tưởng đạo đức của Bác vào từng bài, từng mục cụ thể qua việc kể lại những câu chuyện gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Bác trong lịch sử dân tộc, mà biểu hiện cụ thể là thời kì kháng chiến chông Pháp, Mĩ để học sinh có cách hiểu sâu sắc, cụ thể về Bác cũng như lịch sử dân tộc. 3.2.2.1. Thực hiện: Đối với việc lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử 9 có thể thông qua nhiều hình thức. Trong một bài dạy có thể dùng hình ảnh tư liệu, phim tư liệu, kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh, trích dẫn những câu nói của Bác hoặc trích dẫn những danh nhân, tư liệu văn học về Bác để giáo dục tư tưởng của Bác đối với học sinh. Tôi đã lồng ghép giáo dục cho học sinh tư tưởng đạo đức của Bác Hồ thông qua một số bài học như sau: Khi dạy bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân - Mục VI: Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước Việt - Pháp. Khi dạy đến mục này: Theo lời mời của Chính phủ Pháp và “theo mệnh lệnh của Chính phủ và ý chí của quốc dân” ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường thăm Cộng hòa Pháp. Với phong cách tư duy, ứng xử, làm việc hết sức độc đáo, các hoạt động của Người trong thời gian hơn 4 tháng đi Pháp (từ 31/5 đến 20/10/1946) đã để lại cho chúng ta nhiều bài học bổ ích, nhất là trong bối cảnh cả nước đang khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng. Phong cách dùng người hiệu quả Trước khi đi Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh mạnh dạn ủy thác cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái) đảm nhiệm Quyền Chủ tịch nước với lời bàn giao nhiệm vụ nổi tiếng: “Dĩ bất biến - Ứng vạn biến”. Trong suốt thời gian Người ở Pháp, mọi vấn đề bất ổn về an ninh chính trị của đất nước đều được giải quyết. Với vụ phá án phố Ôn Như Hầu, đã góp phần quan trọng củng cố chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Ở đây, có điều hết sức đặc biệt, vì theo lẽ thường, người được giao Quyền Chủ tịch phải là Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Quốc dân đảng), hoặc người thân tín lại có quyền lực như Võ Nguyên Giáp (Kháng chiến Ủy viên Chủ tịch của Chính phủ kháng chiến), nhưng Người không chọn vậy. Và lịch sử đã chứng minh Chủ tịch Hồ Chí Minh trao quyền cho chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng là sự lựa chọn, dùng người tối ưu. Hồ Chí Minh luôn thấy ở mỗi người dân Việt Nam sức mạnh tiềm tàng được khơi nguồn từ mẫu số chung của lòng yêu nước, nếu biết tổ chức, giao việc phù hợp họ sẽ là người tốt, hữu ích. Ngày 01/6/1946, lúc trên đường đi Pháp, trong Thư gửi đồng bào
  8. Nam Bộ, Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ”. Với cách nhìn nhận khoan dung, tin vào Nhân dân, vào con người, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1946 - 1954. Chính phủ Pháp tổ chức trọng thể Lễ đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Sân bay Le Bourget, Thủ đô Paris (22-6-1946) và thu phục nhân tâm bằng sự chân thành, thiện chí Trong thời gian đến Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có gần 400 cuộc gặp mặt, trao đổi với rất nhiều nhân vật quan trọng thuộc các đảng phái, khuynh hướng chính trị của Pháp, đã gặp 14 tướng lĩnh Pháp và tất cả các bộ trưởng của Chính phủ Pháp đương thời. Chủ tịch cũng tiếp xúc rộng rãi với các giới văn hóa, xã hội và báo chí Pháp, gặp nhiều nhà hoạt động chính trị - xã hội ở nhiều châu lục và Việt kiều ở Pháp. Với phong cách chân thành, thiện chí xây dựng và cởi mở, khiêm tốn, giản dị và trọng nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những ấn tượng tốt đẹp cùng sự kính trọng, tin tưởng trong tâm tưởng người Pháp cũng như những người tiếp xúc với Người, kể cả các đối thủ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ.
  9. Khi dạy bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân - Mục VI: Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước Việt - Pháp. Năm 1946, người trí thức Trần Đại Nghĩa, sau cuộc gặp với Bác Hồ ở Pháp đã quyết định theo Bác về nước chiến đấu. Ông trở thành Cục trưởng đầu tiên của Cục quân giới và được mệnh danh là “Ông vua vũ khí” của Việt Nam. Ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, Trần Đại Nghĩa có ghi vào cuốn sổ tay của mình một câu: “Đã hoàn thành nhiệm vụ!”. Lúc sinh thời ông từng nói: “Bạn bè của tôi ở lại bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi rất nhiều. Nhưng về khía cạnh phụng sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả”. Và như thế, được phụng sự, đóng góp công sức cho dân tộc đã là lí tưởng mà ông muốn cho cuộc đời mình. Hành trang của một người trí thức yêu nước Năm 1913, cậu bé Phạm Quang Lễ (tên thật của Thiếu tướng, Giáo sư – Viện sĩ Trần Đại Nghĩa) cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nhà giáo nghèo ở tỉnh Vĩnh Long. 7 tuổi đã mồ côi cha, nhưng Trần Đại Nghĩa vẫn được đi học là nhờ sự tần tảo của má và sự hi sinh của người chị gái. Chị gái ông khi đó mới 8 tuổi, đã nghỉ học ở nhà, cùng má làm lụng nuôi em trai ăn học. Là học sinh trường Petrus Ký nổi tiếng Sài Gòn, cậu học trò nghèo Phạm Quang Lễ bao giờ cũng đứng đầu lớp. Vì học giỏi nên ngày đó chính quyền Pháp có ý đưa Phạm Quang Lễ ra Hà Nội học làm quan, nhưng ông từ chối, vì đó là công việc ‘bán nước, hại dân”. Thay vì làm quan, ông nhận học bổng đi học ở Pháp năm 1935, với ước mơ sau này sẽ quay về giúp dân, cứu nước. Từ khi còn trẻ, cậu học trò Phạm Quang Lễ đã có một suy nghĩ: nước Việt Nam có truyền thống đánh giặc cả nghìn năm, lòng can đảm và lòng yêu nước đều không thiếu, nhưng người Việt Nam vẫn bị thực dân Pháp khuất phục là do ta không có vũ khí hiện đại như Pháp.
  10. Chính vì thế khi sang Pháp du học, Phạm Quang Lễ đã thề sẽ học cho bằng được cách chế tạo vũ khí đề về đánh Pháp. Nhưng sang đến Pháp, Phạm Quang Lễ mới nhận ra suy nghĩ của mình quá đơn giản. Người Pháp không đời nào cho phép một du học sinh nước ngoài ở Pháp học ngành chế tạo vũ khí. Ngành học đó chỉ dành cho những sinh viên Pháp. Không nản chí, ngoài việc học ở trường, Phạm Quang Lễ còn tự mày mò đọc những sách về vũ khí tại nhà. Sau này tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sự của một hãng chế tạo máy bay, dù kiếm được bao nhiêu tiền, Phạm Quang Lễ cũng đều dồn cả vào mua sách liên quan đến vũ khí. Ông đọc sách ngày đêm, chờ cơ hội về giúp nước. Thời cơ đến vào năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp, trong cuộc gặp gỡ kiều bào Việt ở Pháp, Bác Hồ đã lắng nghe nguyện vọng của Phạm Quang Lễ. Bác hỏi: “Chú về nước chế tạo vũ khí, cách mạng sẽ rất cần. Nhưng trong nước khổ lắm. Chú có chịu nổi không?”. Phạm Quang Lễ gật đầu: “Thưa Bác, cháu đã chờ đợi ngày này suốt 11 năm trời”. Năm đó, khi Bác Hồ rời Pháp về Việt Nam, có một người trí thức tên Trần Đại Nghĩa đã đi theo. Người trí thức đó chính là Phạm Quang Lễ. Và cái tên Trần Đại Nghĩa mà Bác Hồ đặt cho ông năm đó, là cái tên đã đưa ông đi vào lịch sử ngành chế tạo vũ khí của Việt Nam. Từ bỏ công việc kỹ sư ở một hãng chế tạo máy bay lớn, Trần Đại Nghĩa đã từ bỏ mức lương tương đương với 20 lạng vàng 1 tháng để về Việt Nam theo cách mạng. Hành trang trở về của ông là 1 tấn sách toàn về vũ khí. Ông trở thành Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới. Chiến công đầu tiên của ông là chế tạo thành công súng Bazooka, một loại súng bắn xe tăng đầu tiên do Việt Nam chế tạo. Khi mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp rất coi thường quân đội Việt Nam. Chúng tuyên bố: “Chỉ cần mất 8 ngày, sẽ tiêu diệt hoàn toàn cách mạng Việt Nam”. Sở dĩ chúng chủ quan thế là bởi chúng biết Việt Nam chưa có súng bắn xe tăng – thế mạnh chủ lực của Pháp khi ấy. Nhưng chúng không biết rằng Việt Nam đã có nhà khoa học Trần Đại Nghĩa. Về Việt Nam, ông ngay lập tức bắt tay vào chế tạo súng Bazooka, theo những mẫu của nước ngoài. Trong cuộc hành quân đầu tiên của xe tăng Pháp tấn công vào quân ta, súng Bazooka vừa bắn ra đã làm cháy chiếc xe tăng dẫn đầu của Pháp. Chúng hoảng loạn, bỏ chạy, quân ta thắng trận đó mà không hề hi sinh bất cứ một ai. Sau thành công đầu tiên, Trần Đại Nghĩa tiếp tục mày mò nghiên cứu để chế tạo thêm vũ khí đánh giặc. Ông được mệnh danh là “ông vua vũ khí của Việt Nam” từ ngày đó. Ông trở thành Thiếu tướng trong đợt phong hàm đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. “Ông Tướng gàn” Trần Đại Nghĩa Vai trò của ngành chế tạo vũ khí rất được Bác Hồ coi trọng, thể hiện qua những đặc quyền mà Bác dành cho Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa. Ngày đó, Bác thường dặn dò quân nhu: “Chú Nghĩa nghiện thuốc lá. Phải nhớ chuẩn bị đủ thuốc lá cho chú ấy hút để chú ấy còn nghiên